Monday, February 25, 2008

 

CHUYẾN ĐI XUYÊN VIỆT CỦA MỤC SƯ NGUYỄN HỒNG QUANG VÀ PHÁI ĐOÀN

Ngày 26-01-2008, Mục sư Nguyễn Hồng Quang đã dẫn đầu một phái đoàn 22 người khởi hành từ Sài Gòn bằng đường bộ để thực hiện một chuyến đi xuyên Việt thăm các đạo hữu và các nhà đấu tranh cho tự do dân chủ bị cầm tù. Phái đoàn gồm có 14 mục sư thuộc Giáo Hội Tin Lành Mennonite, trong đó có Ms Nguyễn Công Chính, 4 truyền đạo và 4 tu sinh. Phái đoàn đã thuê một xe chở hành khách 29 chỗ ngồi để thực hiện chuyến đi này.

Sáng 29-01, phái đoàn đến trụ sở công an tại Hà Nội gặp các cấp chỉ huy để xác nhận phép đi thăm nuôi và gặp mặt Lm Nguyễn Văn Lý, Ls Nguyễn Văn Đài, Ls Lê Thị Công Nhân, Ms K’Sotino, Ms Rolanche, nữ mục sư Nguyễn Thị Hồng và các mục sư và tín hữu Tin Lành hiện bị cầm tù. Tiếp phái đoàn có các lãnh đạo công an là ông Toàn, ông Hà (phụ trách Tin Lành) và ông Minh (ghi chép). Theo Ms Quang, cuộc gặp gỡ này còn có mục tiêu đối thoại chính thức với bộ Công an về quan điểm và các khái niệm chính trị. Ms Quang và phái đoàn đã yêu cầu bộ Công an nên hành xử công bằng, văn minh hơn trong thời điểm đặc biệt hiện nay, có trách nhiệm với dân tộc hơn. Mục sư cũng cho họ biết cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ, nhân quyền không chỉ do các “nhà dân chủ” ít ỏi thực hiện, được người Việt hải ngoại ủng hộ, mà là nguyện vọng chung của cả dân tộc. Mục sư cũng kêu gọi đoàn kết dân tộc để bảo vệ quyền lợi Tổ quốc trên Biển Đông mà Hoàng Sa và Trường Sa là một nỗi xót xa chung cho bất cứ người Việt Nam nào yêu nước. Mục sư sắc tộc Y’Bra và các mục sư phục vụ các sắc tộc đã yêu cầu thả những người biểu tình 2001 và 2004, giải quyết vấn đề đất đai và cấm đoán việc hành đạo.


Các Mục sư trước Bộ Công An

Đại diện Công an trả lời là họ sẽ nghiên cứu, xin ý kiến cấp trên, cái gì tháo gỡ được thì làm ngay, cái nào chưa thì cần phải nhiều thời gian nhưng cũng sẽ giải quyết. Ông Toàn nói nếu duy trì sự trao đổi thì hy vọng mọi vấn đề có cơ hội giải quyết từ việc đất đai nhà thờ hay việc khó khăn tại địa phương. Ông Toàn còn khẳng định: “Tôi bảo đảm với các ngài từ nay trở đi tức năm 2008 nầy không còn cái cảnh bắt bớ việc nhóm họp nào ở các địa phương nữa dù có đăng ký hay chưa đăng ký cũng được tự do”. Tất cả các mục sư đều quá ngạc nhiên nhìn nhau vì thấy sự thật quá khứ đã hoàn toàn không đúng như lời bảo đảm của ông Toàn. Phái đoàn cũng không hiểu ông Toàn có ngụ ý gì khi phát biểu: “Mọi sự thay đổi rất nhanh, có thể tối ngủ sáng ngày lại khác”.

Trong thời gian ở Hà Nội, phái đoàn mục sư đã viết thư Hiệp Thông với cuộc biểu tình cầu nguyện đòi lại Tòa Khâm sứ của giáo dân Hà Nội và đã cử đại diện đến tòa Tổng Giám Mục Hà Nội trao tận tay linh mục phụ trách văn phòng tòa TGM trong lúc Đức TGM đi vắng không ra tiếp được. (xem hình chụp thư Hiệp Thông bên dưới)
Phái đoàn, trong đó có thêm bà Trần Thị Lệ, mẹ của Ls Lê Thị Công Nhân, đã rời Hà Nội để đến trại giam Nam Hà (Bà Lệ và bà Vũ Minh Khánh, vợ Ls Nguyễn Văn Đài, bị công an đề nghị không nên đi theo phái đoàn, nhưng chỉ có bà Khánh chấp hành đề nghị ấy). Tại trại giam Nam Hà, phái đoàn chỉ được gặp mặt một mình Ls Nguyễn Văn Đài, không được gặp những người khác, kể cả Lm Nguyễn Văn Lý. Ms Quang chỉ được phép viết một lá thư tại chỗ cho Lm Lý (xem hình chụp lá thư bên dưới) và chuyển tất cả thư của cộng đồng quốc tế cho cha Lý. Ban giám đốc trại giam chỉ cho 4 người đại diện được thăm Ls Đài trong 45 phút.


4 mục sư cùng anh công an đi bộ vào trại giam Nam Hà

Ls Đài cho biết ông bị giam chung với nhiều anh em sắc tộc có tội danh giống nhau. Ông bị bệnh trĩ do thức ăn thức uống không được tốt. Anh em trong tù rất cần những bản thánh ca và Thánh Kinh nhưng bị cấm. Trong dịp gặp gỡ này, Ms Nguyễn Hồng Quang đã chính thức phong chức mục sư cho Ls Đài chiếu theo quyết định của hội đồng Giáo Hội tháng 07/2007. Tinh thần của luật sư kiêm mục sư Nguyễn Văn Đài rất vững.
Rời trại tù Nam Hà, phái đoàn đi Thanh Hóa để đến trại giam số 5 Yên Định. Bà Lệ, mẹ của Ls Lê Thị Công Nhân, phải chờ ở ngoài, không được vào thăm nuôi con gái. Ms Quang kể: “Chúng tôi ngồi vào phòng độ chừng 30 phút thì Công Nhân được dẫn ra, em mặc bộ đồ tù sọc trắng sọc xanh như tôi đã từng mặc hơn hai mươi năm trước khi ra tòa cũng cùng tội danh với em ngày nay: ‘Tuyên truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa’. Nhìn em nước da rất trắng tóc dài đen, vóc người nhỏ con, cao chừng độ hơn 1m50 nhưng phát ra phong cách ung dung tự tại của người trượng phu. Em nói năng xác tín vững vàng đầy dũng khí nhưng vị tha và hồn nhiên lắm”.

Lê Thị Công Nhân nóng lòng muốn biết tin tức ở ngoài. Ms Quang đã khéo léo (vì luôn luôn có người chứng kiến cuộc nói chuyện riêng) cho biết về tình trạng của cha Lý, Ls Đài và các anh chị em khác, cũng như những cuộc cầu nguyện đòi lại toà khâm sứ của đồng bào Công Giáo. Ms Nguyễn Công Chính chuyển lời quan tâm, thăm hỏi chân thành của cộng đồng người Việt hải ngoại đến Công Nhân. Cô cho biết cô bị viêm mũi nặng, bị giam chung với tù hình sự, luật sinh hoạt rất khó khăn, không cho tắm trong buồng tắm. Đôi khi chị em tù cùng phòng gây sự với cô trong buồng giam khiến cô nghĩ rằng có sự tác động ở sau lưng để quấy nhiễu, làm cho cô khủng hoảng tinh thần.
Khi gặp Ls Đài, Ms Nguyễn Hồng Quang được biết Ls Lê Thị Công Nhân đã tin theo Chúa Giêsu nhưng chưa nhận phép Báp-têm để được chính thức là người theo Chúa và gia nhập hội thánh. Nhân dịp thăm tận mặt này, Ms Quang đã mượn bình thuỷ nước nóng sẵn có trong phòng đổ vào ly, đứng dậy, đổ nước trên đầu cô, nhân danh Chúa Jesus Christ làm Báp-têm cho cô trước mặt cán bộ trại giam sau khi cô đồng ý nhận lãnh. Sự việc bất ngờ quá, các cán bộ có lẽ cũng chẳng hiểu đó là một nghi thức tôn giáo, tuy rất đơn giản nhưng cũng hết sức quan trọng trong đời sống tâm linh tín hữu Cơ Đốc, nên không có phản ứng gì.

Lúc hết giờ thăm, tất cả đứng dậy. Viên thượng tá kéo tay Công Nhân trở vào trại giam. Không ai nói nên lời. Ms Nguyễn Hồng Quang đã kết luận về Lê Thị Công Nhân như sau: “Tôi thấy Ls Lê Thị Công Nhân quả là một tâm hồn trong sáng như hoa hướng dương, không hướng tâm hồn vào sự tầm thường và bóng tối, luôn hướng thẳng về phiá mặt trời công nghĩa, dù trong ngục thất vẫn hướng lòng mình nơi bình minh Chân lý mới vừa ló dạng, quả thật Công Nhân là người Chúa chọn”.
Trên đường trở về Nam, phái đoàn đã ghé Huế thăm Lm Phan Văn Lợi để cùng trao đổi tình hình và cùng cầu nguyện cho đất nước và cho nhau.


Ms NH Quang gặp Lm PV Lợi

Trong chuyến đi xuyên Việt này, phái đoàn cũng tranh thủ thời gian để viếng thăm nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, một trong những đại diện của Khối 8406, ở Hải Phòng, thăm nhà văn Du Lam ở Đà Nẵng, gặp gỡ một số chức sắc đạo, tín hữu, sinh viên và đồng bào Chăm, H’Rê, Kor tại Quảng Ngãi, Phan Rang, thăm một số gia đình cựu tù nhân cải tạo thuộc Quân Lực VNCH còn ở lại Việt Nam. Phái đoàn đã về tới Sài Gòn bình yên ngày 04-02-2008. Ms Nguyễn Hồng Quang tóm tắt về chuyến đi như sau: “Chuyến đi dài ngày nguy hiểm nhưng gặt được một số kết quả dù khó khăn. Một số việc làm cần thiết cho nhiều tù nhân lương tâm không làm được. Nhiều điều chưa thể nói ra được còn phải tiếp xúc và thảo luận nhiều hơn các phía liên hệ và các nơi quan tâm”.

Một người bạn của Ms Nguyễn Hồng Quang
viết tóm tắt sau khi trực tiếp nghe Mục sư tường thuật.




Saturday, February 16, 2008

 

Các nhà dân chủ quốc nội bị cấm cản dự đám tang của cụ Hoàng Minh Chính

(Bản tin ngày 15-02-2008)
Mấy ngày qua dồn dập tin tức về chuyện nhà cầm quyền CSVN ra sức phá hoại đám tang cụ Hoàng Minh Chính.
Hôm 13-02-2008, Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, trong Thông cáo Báo chí, đã cho biết: “Nhận được lời yêu cầu của bà Hoàng Minh Chính, Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ đã cử Hoà thượng Thích Không Tánh ra Hà Nội cử hành tang lễ dự tính vào ngày 16-2-2008. Ngày hôm qua, 12-2-2008, Hoà thượng Thích Không Tánh lên đường đi Hà Nội mang theo bức trướng của Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ phúng điếu Giáo sư Hoàng Minh Chính… Nhưng khi Hoà thượng Thích Không Tánh ghé Huế để đón hai Thượng toạ cùng đi Hà Nội, thì bị Công an Thừa Thiên - Huế chận bắt «làm việc» từ 10 giờ đêm cho đến 12 giờ khuya tại khách sạn Mai Đào. Hiện diện có 6 công an, trong số này có ông Trưởng phòng và Phó trưởng phòng Công an Huế. Công an Huế ra lệnh Hoà thượng phải lập tức quay về Saigon không được ra Hà Nội. Vì «đám tang ông Hoàng Minh Chính là bất hợp pháp, không ai được quyền tham dự», công an tuyên bố. Hoà thượng Thích Không Tánh phản bác nói rằng : «Chúng tôi chỉ làm nhiệm vụ tôn giáo theo lời yêu cầu của tang quyến. Bằng mọi giá tôi sẽ đi Hà Nội cử hành tang lễ theo nghi thức Phật giáo. Nghĩa tử là nghĩa tận, các ông không có quyền hành gì đối với hương linh người quá cố». Cãi qua nói về suốt 2 giờ đồng hồ, cuối cùng công an tịch thu giấy Chứng minh Nhân dân của Hoà thượng Thích Không Tánh và ra lệnh cho Hoà thượng đến làm việc tiếp vào 7 giờ sáng hôm sau…. Hoà thượng cho biết vẫn quyết tâm đi Hà Nội và sẽ ra đường đón xe đi vào lúc 4 giờ sáng, mặc lệnh công an cấm Khách sạn không để cho Hoà thượng rời phòng. Sáng nay, 13-2-2008, vào lúc 14 giờ… Hoà thượng cho biết đang trên đường xe đến Hà Nội. Chưa biết khi tới Hà Nội sẽ ra sao. Chúng tôi sẽ cung cấp diễn tiến sự việc khi có tin mới”.
Một nhân vật đấu tranh thứ hai là cô Phạm Thanh Nghiên, gốc Hải Phòng, cũng bị công an đối xử tương tự. Vì ban đại diện lâm thời của Khối 8406 tại quốc nội (kỹ sư Đỗ Nam Hải, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, cựu chiến binh Trần Anh Kim, linh mục Phan Văn Lợi) đều bị công an ngăn chận không cho ra Hà Nội để phúng điếu và dự tang lễ cụ Hoàng Minh Chính, một trong những vị sáng lập Khối, nên cô Phạm Thanh Nghiên đã được tất cả ủy thác làm công việc này. Dù bị theo dõi, cô cũng đã lên được Hà Nội và trú tại nhà bà Trần Thị Lệ, mẹ của Ls Lê Thị Công Nhân, vốn là họ hàng của cô. (Phòng 316, A7 Tập thể Văn phòng Chính phủ, Ngõ 4 Phương Mai, Đống Đa, Hà Nội). Khi vừa tới nhà bà Lệ, cô Nghiên đã làm các thủ tục pháp lý về tạm trú. Tuy nhiên, tối hôm qua, ngày 14-02-2008, lúc 23g30 phút, công an đã đến nhà bà Lệ để kiếm chuyện và yêu cầu cô Nghiên ra ngay đồn công an phường. Bị cô từ chối, họ đã tịch thu giấy chứng minh nhân dân của cô rồi buộc cô phải trình diện tại phường sáng nay. Khi chúng tôi viết bản tin này (16g ngày 15-02-2008), thì có tin báo cô Nghiên đang khốn đốn với công an tại đồn. Có thể họ sẽ giam giữ cô tại đồn cho tới sau tang lễ hoặc sẽ áp giải cô lập tức về Hải phòng.
Các nhà dân chủ khác ở Bắc Hà như ông Nguyễn Bá Đăng ở Hải Dương, cựu đảng viên Vi Đức Hối ở Lạng Sơn, thầy giáo Vũ Hùng ở Hà Tây, thầy giáo Nguyễn Thượng Long ở Hà Tây, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa ở Hải Phòng, ký giả Nguyễn Khắc Toàn ở Hà Nội, ông Đỗ Duy Thông ở Hà Nội, cử nhân Phạm Văn Trội ở Hà Tây đều đang bị công an bao vây chặt chẽ tại nhà (mỗi nhà có ít nhất 10 tên công an canh gác trước cửa). Đặc biệt, công an đã nhét vật lạ vào lỗ khóa tư gia nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa tối hôm qua. Sáng nay, gia đình phải nhờ người tình cờ đi qua mời thợ khóa đến mới ra ngoài được. Còn thầy Vũ Hùng thì đang bị công an Hà Tây mời đến đồn để thẩm vấn. Riêng kỹ sư Nguyễn Phương Anh ở Hà Nội thì công an cho biết anh có thể đi dự đám tang nhưng không được làm gì và nói gì cả. Có một toán dân oan từ Đà Lạt đã ra Hà Nội từ mấy hôm rồi nhưng cũng bị ngăn chặn đến nhà cụ Chính để phúng điếu.
Tưởng cũng nên nhắc lại: quý thầy Nguyễn Thượng Long và Vũ Hùng là hai vị vừa cùng với giáo sư Nguyễn Văn May và giáo viên Phan Văn Hùng hôm 15-01-2008 đã viết thư ủng hộ các cuộc tuần hành biểu tình yêu Nước của học sinh, sinh viên chống Trung quốc xâm lược.
Có lẽ đây là lần đầu tiên trong lịch sử chế độ CSVN, nhà cầm quyền đã mở một chiến dịch tổng lực toàn quốc nhằm ngăn chận nhân dân bày tỏ nghĩa cử đối với một người đã khuất và ngăn cản các nhà dân chủ biểu lộ lòng thương tiếc đối với một vị lão thành dân chủ. Điều ấy chỉ cho thấy bộ mặt nhơ nhuốc và thái độ hoảng hốt của một nhà nước độc tài đang run sợ trước cao trào dân chủ tại quốc nội lẫn hải ngoại. Trò cản ngăn thô bỉ ấy lại càng làm sáng tỏ khuôn mặt đấu tranh bất khuất và đích thực của cụ Hoàng Minh Chính.
Xin kết thúc bản tin với lời của Giáo sư Võ Văn Ái, Chủ tịch Cơ sở Quê Mẹ : Hành động cho Dân chủ Việt Nam, đã tuyên bố với báo chí quốc tế tại Paris rằng : «Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã tước đoạt quyền tự do của Giáo sư Hoàng Minh Chính khi ông còn sống. Sau hàng chục năm giam cầm, sách nhiễu và lăng nhục giáo sư, nay Hà Nội lại tráo trở tìm cách đầu tư cái chết của giáo sư cho cuộc tuyên truyền chính trị bằng cách áp đặt tổ chức tang lễ ! Nhà cầm quyền Hà Nội phải tôn trọng lời trăn trối của giáo sư giao việc cử hành tang lễ cho gia đình…».
Nhóm Phóng viên FNA từ Huế, 16g30 ngày 15-02-2008

(Bản tin ngày 12-02-2008)
Tin tức mới nhất cho biết, sáng nay, lúc 10g ngày 12-01-2008 (mồng 6 Tết Mậu Tý), kỹ sư Đỗ Nam Hải, thành viên Ban Đại diện lâm thời Khối 8406, đang cư ngụ tại Sài gòn, định lấy taxi ra phi trường bay ra Hà Nội dự đám tang của cụ Hoàng Minh Chính, nhà đấu tranh dân chủ lão thành vừa qua đời hôm mồng một Tết.
Nhưng mới ra khỏi nhà ở số 441 Nguyễn Kiệm, phường 9, quận Phú Nhuận, được vài bước, kỹ sư Đỗ Nam Hải đã bị một toán công an chặn lại và hỏi ông đi đâu. Kỹ sư Hải thẳng thắn trả lời: “Tôi ra Hà Nội dự đám tang cụ Hoàng Minh Chính. Yêu cầu các anh tránh ra kẻo tôi trễ giờ đến phi trường”. Bất chấp luật pháp, toán công an này, đứng đầu là một trung tá, vẫn dùng vũ lực để cưỡng bức kỹ sư Hải vào lại nhà mà rằng: “Ông không được phép ra Hà Nội trong lúc này, hiểu chưa!”. Kỹ sư Hải vặn lại: “Ai cho phép các anh ngăn cản quyền đi lại của công dân? Tôi sẽ tố cáo các anh về tội này!” Nhưng nói gì thì nói, miệng của công an là mệnh lệnh, tay của công an là luật pháp, cuối cùng Kỹ sư Hải đã bị cả bọn “ngu trung đầu gấu” này tống vào nhà.
Tại Hải Phòng cũng xảy ra sự việc tương tự với nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, thành viên khác trong Ban Đại diện lâm thời Khối 8406. Số là từ hôm mồng hai Tết (08-02-2008), công an địa phương và Hà Nội đã đến tư gia của nhà văn để “mặc cả” về chuyện đi Hà Nội dự đám tang cụ Chính. Một là họ sẽ tìm mọi cách ngăn cản nếu ông vẫn tự lên Hà Nội, hai là họ sẽ đưa vợ chồng ông đi bằng xe của họ!?! Dĩ nhiên nhà văn từ chối giải pháp thứ hai. Hôm qua, 11-02, nhà văn đến tư gia cô Phạm Thanh Nghiên để dùng cơm cùng với bà Trần Thị Lệ (mẹ luật sư Công Nhân đồng thời là họ hàng với cô Nghiên), công an cũng bám theo ông sát nút. Sau đó họ về tận nhà ông, ngang nhiên đe dọa sẽ có vụ “Lưu Quang Vũ thứ hai”. Nghĩa là CS sẽ dàn dựng một vụ tông xe để giết chết nhà văn như cách đây hơn một thập niên, họ từng giết chết kịch tác gia Lưu Quang Vũ (một người có đầu óc phê phán chế độ) và vợ là thi sĩ Xuân Quỳnh cùng đứa con nhỏ qua một tai nạn giao thông trên đường từ Hải Phòng lên Hà Nội.
Lời đe dọa này không làm cho nhà văn nao núng và ông vẫn quyết định lên Hà Nội dự tang lễ, trù định tổ chức ngày mồng 10 Tết (16-02-2008). Do đó, công an bèn đóng chốt hẳn trước nhà ông. Cho tới khi chúng tôi loan tin này, một chiếc xe công an mang biển số Hà Nội vẫn nằm chình ình trước tư gia nhà văn đối kháng bất khuất của chúng ta.
Xin nói thêm là cô Phạm Thanh Nghiên, một nhà dân chủ trẻ tuổi và gan lỳ khác tại Hải Phòng cũng bị công an đối xử như với nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa. Nhưng cô vẫn quyết liệt đi làm nghĩa cử cuối cùng với cụ Hoàng Minh Chính, bậc đấu tranh tiền bối, lão thành mà hầu hết mọi nhà dân chủ quốc nội đều mến yêu, thương tiếc và cảm phục.
Nghĩa tử là nghĩa tận ! Việc tang chế là điều thiêng liêng đối với con người và nhất là đối với người Việt Nam ta. Thế nhưng CS vẫn chà đạp lên truyền thống tốt đẹp, đạo lý ngàn năm này. Đây lại thêm một tội ác đối với nền văn hóa nhân bản của đất nước, sau tội ác chà đạp ngày Tết thiêng liêng của dân tộc với cuộc tàn sát man rợ đồng bào cách đây 40 năm, nhân dịp tết Mậu Thân.
Phóng viên FNA tường trình từ Huế

Thursday, February 14, 2008

 

Chiến dịch phản pháo

Trong ba năm qua, trên Internet đã xuất hiện một website mang tên nhandanvietnam. org, tuyên truyền cho CSVN. Bắt đầu từ tháng 12 năm 2007 đến nay, website này đã mở chiến dịch phản chứng về vụ thảm sát Tết Mậu Thân 1968 và tấn công Thiên Chúa Giáo.
Vụ án thảm sát Tết Mậu Thân: Các tác giả của trang nhà này cho rằng số người chết trong Tết Mậu Thân, nhất là ở Huế, đều do bom đạn của Mỹ – Ngụy, chứ không phải do “quân giải phóng” tàn sát. Website nói: “Một nhà nhiếp ảnh khác, viết rằng hầu hết các nạn nhân “đã bị giết bởi bom đạn được bắn một cách kinh hoàng chưa từng thấy của Mỹ”... đã được quân của Mặt Trận chôn tập thể cùng với những du kích bị thiệt mạng về phía của họ (theo nguồn tin của quân Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) và một số lớn thường dân bị “quân đồng minh chôn sống” (mass graves by the “allies”)....
Riêng vụ “thảm sát’ tại Bến Tre, các tác giả cho rằng những gì mà Thiền Sư Nhất Hạnh tố cáo vào tháng 8 năm 2001 là đúng sự thật, nhưng Hội Ký Giả Việt Nam Hải Ngoại đã mở chiến dịch vu khống Thiền Sư.
Ông Bùi Tín, chẳng biết chút gì về cuộc thảm sát ở Huế, lại nói với đài BBC hôm 24.1.2007: ''Khi quân Mỹ đổ bộ lại từ Phủ Bài trở ra để lấy lại Huế thì anh em họ trói, di chuyển đi hàng mấy trăm tới hàng nghìn người. Do vướng chân, mệt, rồi bị pháo bắn ở ngoài biển vào dữ dội cho nên do phần lớn do tự động các chỉ huy trung đội tới trung đoàn đồng lõa với nhau để thủ tiêu không cho cấp trên biết.''
Vụ tấn công Thiên Chúa Giáo: Các tác giả đã lặp lại những luận điệu do nhóm Giao Điểm đã đưa ra mấy năm về trước.
Phương pháp lập luận của nhóm này thường là:
(1) Trích dẫn các bài viết hay sách của các tác giả thiên cộng cố ý viết sai lệch và coi đó là “chân lý”. Có khi họ chỉ trích những đoạn có lợi cho họ, còn các đoạn khác bỏ đi hoặc cố tình dịch sai để xuyên tạc (như trường hợp Cao Huy Thuần dịch cuốn “Divers voyages et mission” của Alexandre de Rhode).
(2) Đưa ra các sự kiện ngụy tạo như là những bằng chứng lịch sử.
Một trong các thủ phạm đã tham gia vào vụ thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế là Nguyễn Đắc Xuân, cũng có mặt trong nhóm phản bác những tài liệu của Việt Nam Cộng Hòa.
Nhiều người tin rằng Bộ Thông Tin Văn Hòa của Hà Nội đã cho mở chiến dịch này để “vô hiệu hóa” các chương trình kỷ niệm 40 năm Thảm Sát Mậu Thân đang được cộng đồng người Việt hải ngoại tổ chức, còn chiến dịch bôi nhọ Thiên Chúa Giáo là để “hóa giải” vụ Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đang dòi lại nhà đất hiện nay.
Để độc giả có thể đoán xét một cách công bằng, trước hết chúng tôi xin trích đăng những đoạn quan trọng trong các bài biện minh cho Cộng Sản như đã nói trên, sau đó chúng tôi sẽ trình bày kế hoạch thảm sát trong vụ Tết Mậu Thân ở Huế đã được Hà Nội soạn thảo kỹ càng, tiến trình vụ thảm sát này và những hậu quả.
BIỆN BÁC CỦA BỒI BÚT TRẦN THÔNG
Trong bài dưới đầu đề “Chứng Nhân: Mậu Thân - Hố Chôn Tập Thể - Hậu Mậu Thân Huế 68”, được đưa lên Internet hôm 6.1.2008, bồi bút Tâm Đạt Trần Thông đã viết như sau:
“Robert Shaplen viết về lúc đó “Không có gì trong cuộc chiến ở Triều Tiên và Việt Nam khi nói về sự tàn phá, mà tôi thấy kinh hoàng bằng những điều tôi thấy được ở Huế năm ấy. Trong số 17.134 nhà thì 9.776 ngôi nhà đã hoàn toàn bị phá hủy và 3.169 ngôi nhà bị thiệt hại khá trầm trọng…. Và dường như rất có thể những bom đạn Mỹ “cứu” dân Việt Nam đã giết nhiều thường dân hơn là Quân giải phóng và quân Bắc Việt đã làm…, và do quân đội Sài gòn khi tái chiếm thành phố, giết để trả thù trên quy mô lớn đã xẩy ra ở Huế do lực lượng Saigon sau khi tái chiếm thành phố. Thế mà, Mỹ - VNCH đã méo mó, mô tả một cách sai lệch, thổi phồng, tô vẽ với những điều bịa đặt, là do Quân giải phóng MTGPMN đã thảm sát Mậu Thân Huế, nhằm mục đích tuyên truyền, chỉ là những giọng điệu của một chiến dịch tuyên truyền mở rộng nhằm làm giảm đi ảnh hưởng vụ thảm sát Mỹ Lai mà thôi.”
Sau đó, tác giả trích dẫn một đoạn được nói là của một nhà báo người Ý tên là là Oriana Fallaci. Đoạn đó như sau:
“Trong một bài viết mô tả đầy sinh động, một nhà báo người Ý Oriana Fallaci, trích dẫn lời một linh mục Pháp ở Huế đã kết luận rằng: “Tất cả có khoảng 1100 người bị giết (sau ngày quân Saigon “giải phóng” thành phố. Hầu hết sinh viên, giáo sư đại học, tu sĩ Phật giáo, trí thức và Phật tử (religions people) ở Huế đã không bao giờ che đậy cảm tình của họ đối với Quân Giải Phóng.”
(In a graphic description, Italian journalist Oriana Fallaci, citing a French priest from Hue, concluded that: “Altogether, there have been 1,000 killed (after “liberation” by Saigon forces. Mostly students, university teachers, priests. Intellectuals and religious people at Hue have never hidden their sympathy for the NLF.”).
Tác giả viết tiếp:
“Trong suốt hơn 20 ngày chiếm đóng Huế, khu xóm tôi chỉ có một chị nữ du kích nằm vùng, đó là chị Hoa, vào khoảng 21 tuổi trẻ đẹp (sau ngày giải phóng 30/4/75, chị Hoa là trưởng đồn Công an Mai Khôi, trên đường Chi Lăng?) giúp việc cho 3 nhà, chị đã bắt giam ba người chủ nhà: cảnh sát viên Bửu Mãn, bà Quít chủ nhân bán trầm hương bị giết chết, cùng với một số tù binh VNCH bị trói, và thường dân đang trị thương, bởi đạn phi pháo Mỹ-Ngụy bắn phá Trường Trung học Gia Hội (Trường này gần chùa Tăng Quang Tự, tạm dùng làm Bệnh xá và tạm giam tù binh), được các anh chị du kích, và thanh niên thiện nguyện Bệnh xá đào hố chôn vội chừng 30 xác, và chị bắt Trung tá Khương, chỉ huy trưởng tiếp vận Vùng I, bị kẹt tại nhà bà Nguyễn Đắc Phương giao cho thượng cấp xử lý (Trung tá Khương, được chuyển ra Bắc sau đó).
“Ngày ngày, dân Huế được tin số người chết gia tăng bởi phi pháo oanh kích, bom đạn, bom chùm Mỹ - Ngụy bừa bãi, giết hại thường dân vô tội nằm chết trên đường phố, đường khu xóm và xác người trộn lẫn trong đống gach vụn nhà cửa trúng bom đạn, mùi tử khí xông lên ghê rợn. Chúng tôi nhìn thấy trong những ngày đi mua thực phẩm từ những nơi bán gạo liên gia và đại lý thực phẩm đồ hộp Mỹ, cá hộp và một vài nơi “họp chợ chạy” bán rau tươi để dùng và buôn bán.
“Những xác chết đó được chôn vội khắp đó đây, do các anh chị du kích điều động những thanh niên Phật tử các khu xóm ra cầm súng bao che thân nhân bà con là quân cán chính VNCH, ra trình diện hay lẫn trốn không ra trình diện với Việt Cộng (những thanh niên Phật tử này, không theo Việt Cộng rút đi, thế là đại nạn cho họ Hậu Mậu Thân), sau này Ngụy VNCH cải táng đào lên những hố chôn này, diễn tuồng lên án Việt Cộng “Thảm sát Hố chôn tập thể”,
“Khoảng chừng 6 ngày, trước khi quân Mỹ - quân VNCH tái chiếm Huế, đã nỗ lực dốc hết sức đạn pháo bom đạn được bắn một cách kinh hoàng, bừa bãi chưa từng thấy của Mỹ để loại bỏ bất cứ một kẻ địch nào, được tướng Townsend Hoopes, Phó tham mưu trưởng không quân (Under-secretary of the Air Forces) vào lúc bấy giờ nói rằng trong nỗ lực tái chiếm thành phố, 80% dinh thự đã bị đổ nát và trong đống gạch vụn đó có khoảng 2000 thường dân bị chết, bom đạn Mỹ “cứu” dân Huế đã giết nhiều dân Huế hơn là Quân giải phóng và Bắc Việt đã làm, trong số đó có 30 xác ở trường Trung học Gia Hội…, bất kể lực lượng Việt Cộng cố thủ chỉ còn lại một số chốt (lẫn trốn và rút lui sau cùng) cầm chân tiến quân, quân Mỹ - quân VNCH, để cho đại quân Việt Cộng rút ra khỏi Huế trước 3 ngày quân Mỹ-quân VNCH làm chủ tình hình Huế. Trong khi, Việt Cộng rút ra khỏi Huế, mang theo nhiều tù binh quân cán chính VNCH bị trói dẫn đi và thanh niên bị bắt theo lên núi để bổ xung quân số, bị giết chết rất nhiều bởi bom, phi pháo truy kích, đã được Việt Cộng chôn vội sơ sài, một số thanh niên còn sống chạy tán loạn, không theo Việt Cộng lên núi (Bạn học Võ Đoàn, nay là Hiệu trưởng Trường Trung Học cấp I, Quận Phú Vang, đã trốn chạy về nhà, do phi pháo Mỹ truy kích Việt Cộng từ Phú Vang chạy lên núi). Thế là, chỉ vài ngày sau khi quân Mỹ - quân VNCH, tái chiếm và tái lập ổn định Huế, thì những hố chôn tập thể vội vàng sơ sài khắp nơi, được cải táng đào lên, để diễn tuồng tố cộng nhằm mục đích tuyên truyền...
“Quân lệnh Việt Cộng trong thời chiến Chống Mỹ Cứu Nước, rất nghiêm minh và tử hình ngay tại chiến trận hay lúc rút lên căn cứ, bất kể quân hàm cán bộ du kích hay bộ đội Bắc Việt, có hành vi cướp của giết người trả thù, hiếp dân. Vì kháng chiến quân cách mạng Việt Cộng, sống từ dân, do dân, lớn lên trong dân, chiến đấu trong lòng dân, dân bảo bọc, chở che và ủy nhiệm đánh cho quân xâm lược đế quốc Pháp-Mỹ-Vatican cút và đánh cho Việt gian VNCH nhào dành độc lập-tự chủ-thống nhất đất nước.
“Khi đào các xác chết lên, ai ai cũng là người Việt Nam, làm sao phân biệt được ai quân cán chính VNCH, ai là dân quân du kích, ai là Việt Cộng! Nhưng sau khi đào lên VNCH đều cho tất cả những người chết đều do “Việt Cộng thảm sát”.
“Chỉ còn vài trăm gia đình không tìm được xác cha, chú, bác, anh em, chồng con, là tù binh quân cán chính VNCH bị trói và thanh niên bị bắt theo bổ xung quân số, khắp các địa danh hố chôn tập thể suốt 40 năm nay. Thương tiếc thay, ngàn đời không thể tìm thấy xác những người này (trong đó có anh Lê Hữu Bôi và Trần Điền), trên đường bắt theo lên núi vào rừng, họ đã ôm gọn bom phi pháo hay đạn đại pháo của Mỹ - VNCH truy kích và không tập bừa bãi, nổ banh xác biến thịt xương thành bụi và máu thành hơi như những “bom người” kháng chiến quân Iraq.
“Trường hợp anh Lê Hữu Bôi, kháng chiến quân cách mạng Việt Cộng không bao giờ, không bao giờ và không bao giờ giết nhân sĩ quần chúng Lê Hữu Bôi, lý tưởng cách mạng dân tộc Phật giáo, song hành lý tưởng cách mang dân tộc Việt Minh Cộng Sản Đảng, đánh đuổi thực dân đế quốc xâm lược, quyết dành lại độc lập và thống nhất đất nước. Thật không ngờ, anh Bôi phạm sai lầm sơ đẳng chính trị là chạy loạn trốn bom đạn lại chui vào hang ổ Việt gian Thiên Chúa Giáo phản quốc tại nhà thờ Phú Cam, cùng với đảng viên Đại Việt Cần Lao Công Giáo Trần Điền.
“Sự thật hàng ngàn xác chết thường dân và tù binh quân cán chính VNCH trong các hố chôn tập thể được khai quật do bom đạn Mỹ “cứu” dân Huế đã giết nhiều dân Huế, đã được kháng chiến quân cách mạng Việt Cộng chôn vội. Thế mà, Mỹ - “lính đánh thuê” VNCH đã méo mó, mô tả một cách sai lệch, thổi phồng, tô vẽ với những bia đặt do quân giải phóng Việt đã thảm sát Mậu Thân Huế, nhằm mục đích tuyên truyền, chỉ là những giọng điệu và vai trò của chúng trong một chiến dịch tuyên truyền mở rộng nhằm làm giảm đi ảnh hưởng vụ thảm sát Mỹ Lai.”
BIỆN HỘ CHO NHẤT HẠNH
Trong bài “Tội ác Mỹ – Ngụy, Mậu Thân Bến Tre 68” được đưa lên Internet ngày 18.12.2007, trang nhà nhandanvietnam. org đã viết một bài khá dài nói về biến cố Tết Mậu Thân tại Bến Tre để giới thiệu bài “Mậu Thân: Bến Tre Đã Đi Vào Lịch Sử Nước Mỹ” của Hoa Trinh bênh vực lời tuyên bố của Thiền Sư Nhất Hạnh vào tháng 8 năm 2001 lên án Mỹ – Nguy tiêu hủy toàn tỉnh Bến Tre. Trong phần giới thiệu, nhandanvietnam. org đã trích dẫn những đoạn như sau:
"Việt Cộng đã ở khắp trong thành phố," Thiếu Tá Philip Canella nói. "Chúa ơi, chúng ở khắp mọi nơi ần như chúng ở khắp trong thành phố, có thể chúng ở chung với dân chúng. Đó là dịp Tết và có nhiều người lạ mặt vào trong thành phố."
(The Viet Cong had people all over this town," said Maj. Philip Canella. "Christ, they were everywhere. They had apparently infiltrated into most of the town; they were probably living with the people. It was Tet and there were plenty of strangers in town.)
“Bến Tre đã bị đánh nát bởi hỏa lực của Mỹ. “Đã tới lúc phải tiêu hủy thành phố để cứu nó” một Thiếu Tá Mỹ ẩn danh đả giải thích như vậy; và lời tuyên bố của ông ta trở thành một trong những câu được trích dẫn nhiều nhất về cuộc chiến và một khẩu hiệu thích hợp nhất của các cuộc phản công của Mỹ trong dịp Tổng tấn công Tết [Mậu Thân].
(Ben Tre was pulverized by US. firepower. "It became necessary to destroy the town to save it," an unidentified US. Major explained, thus coining one of the most notorious phrases of the war and a fitting motto for the US. counterattack against the Tet Offensive.)
Trang nhà này viết tiếp:
“Sư thật, Tàn ác Mỹ - Ngụy Cuộc Thảm Sát Mậu Thân và Hậu Mậu Thân Huế 68 và Mậu Thân Bến Tre 68 là do đạn pháo kích của Mỹ và Nam VN được bắn một cách bừa bãi và do quân đội Saigon khi tái chiếm thành phố, giết để trả thù trên quy mô lớn...
“Nhưng cho dù, Mỹ-Ngụy, mở rộng chiến dịch tuyên truyền để giảm ảnh hưởng vụ thảm sát Mỹ Lai, để rồi Mậu Thân Bến Tre 68 đã đi vào lịch sử nước Mỹ “đánh cho Mỹ cút – đánh cho Ngụy nhào”, bởi một Thiếu Tá Mỹ ẩn danh đã tuyên bố, nhằm biện minh cho việc sử dụng bừa bãi bom nổ, khi trả lời cuộc phỏng vấn của ký giả Peter Arnett. Câu tuyên bố của ông ta, rằng "Đã tới lúc phải tiêu hủy thành phố để cứu lấy nó," được nhắc tới rộng rãi trong giới báo chí và đã trở thành biểu tượng phá sản của chính sách Hoa Kỳ ở Đông-Nam-Á mà các phong trào phản chiến sính dùng."
Sau đó, Hoa Trinh đã nhắc lại cuộc họp báo của Hội Ký Giả Việt Nam Hải Ngoại vào chiều Chúa Nhật 14.10.2001 tại nhà hàng Seafood Paracel thành phố Westminster phản đối Thiền Sư Nhất Hạnh đã dùng những câu chuyện bịa đặt đề lên án quân đội Hoa Kỳ và VNCH hủy diệt toàn bộ thành phố Bến Tre.
Tác giả cho rằng hai nhân chứng Nguyễn Ngọc Chấn và Trần Huỳnh Châu ra làm chứng trong cuộc họp báo là không “chính hiệu”.
Theo tắc giả, việc Nguyễn Ngọc Chấn trở về Bến Tre trong Liên Đoàn 5 Biệt Động Quân năm 1968 là phịa, vì lúc đó chiến trận ở QĐ III rất năng, nên LĐ5BĐQ không thể rời khỏi Quân khu III.
Còn Trần Huỳnh Châu, cũng theo tác giả, tốt nghiệp Trường Quốc Gia Hành Chánh, ban Đốc sự khóa 7. Năm 1968, ông nhập ngũ khóa 3/68 vào Trường Bộ Binh Thủ Đức. Trong thời gian có vụ Mậu Thân, ông đang thụ huấn ở Thủ Đức, nên không thể làm Phó Tỉnh trưởng Kiến Hòa.
Sau khi bác bỏ hai nhân chứng quan trọng đã ra làm chứng lời của Thiền Sư Nhất Hạnh là nói láo, tác giả tố cáo ông Đỗ Sơn, Chủ Tịch Hội Ký Giả, “khích động mọi người thù ghét Nhất Hạnh” và “đổ tội việc mất miền Nam cho Phật giáo phản chiến.”
Tiếp theo, tác giả viết lung tung, đọc nghe rất tức cưới như: “Sau đại chiến thứ hai, “Nhật Hoàng và Giáo Hoàng Pius 12 được Mỹ tha không đưa ra tòa án chiến tranh. Đổi lại Giáo Hoàng bỏ rơi con chiên trong các xứ Cộng sản chiếm, theo đường lối của Mỹ là chống cộng. Khi Giáo Hoàng Gioan 23 lên ngôi đã đổi ngược chính sách của Mỹ, theo chính sách xin bắt tay với Cộng Sản để cứu giáo dân trong các nước Cộng Sản...”
Sau đó, tác giả đưa ra một số tài liệu để chứng minh trong biến cố Tết Mậu Thân, Bến Tre bị dội bom rất nặng, chẳng hạn như:
- Ngày 8-2-1968: Kịch chiến tiếp tục tại Bến Tre, 451 VC tử thương, 60 VNCH và 35 Mỹ tử thương, nhiều thường dân thiệt mạng (Đoàn Thêm : 1968: Việc từng ngày, trang 50). Còn tài liệu của Việt Cộng cho biết “Các ngày 2 và 3 tháng 2, pháo địch ở hạm tàu trên sông Hàm Luông và căn cứ Bình Đức Mỹ Tho bắn dữ dội vào nội ô, các loại máy bay ném bom, máy bay trực thăng bắn và rải xăng đặc hủy diệt khu Chợ Bến Tre, làm hơn 300 đồng bào ta chết và bị thương. (Cuộc đọ sức thần kỳ, trang 258 và 259 của Thiếu tướng Lê Quốc Sản chỉ huy Khu 8).”
- Những lời trích trên cùng tin tức khác về việc Mỹ bỏ bom và pháo kích tìm thấy trong báo New York Times số ra ngày 6 tháng 2 năm 1968. Theo báo [New York] Times có ít nhất 750 thường dân bị thương vong ở Mỹ Tho, 350 ở Cần Thơ, 2500 ở Bến Tre.”
Mặc dầu đã cố gắng sưu tập tài liệu, tác giả cũng không thế chứng minh được toàn thành phố Bến Tre đã bị bom đạn Mỹ hủy diệt như Thiến Sư Nhất Hạnh đã tố cáo.
CẬU XUÂN CÃI CHÀY CÃI CỐI
Dĩ nhiên, khi nói đến vụ thảm sát ở Huế vào Tết Mậu Thân năm 1968, cậu Nguyễn Đắc Xuân không thể ngồi yên được, vì cậu là một trong những chính phạm. Nhưng cậu chỉ cãi chày cãi cối.
Cậu Xuân đã viết hai bài đăng trong “Tuyển Tập: Tổng Nổi Dậy Mậu Thân 68” được phổ biến trên nhandanvietnam. org ngày 19.1.2008.
Trong bài “Hậu quả của “cái chết” của tôi” cậu Xuân đã thanh minh về vụ bị cuốn “Giải khăn sô cho Huế” của Nhã Ca tố cáo cậu “lập những phiên toà nhân dân, kêu án tử hình hàng loạt người”. Cậu Xuân hỏi: “Tôi đã mở toà án ở đâu và xử ai?” Sau đó, cậu Xuân nói về chuyện tình giữa Nhã Ca và Trần Dạ Từ, đọc rất vui.
Bài thứ hai là bài “Bình luận một thông tin lịch sử trong sách “L’Offensive Générale Des Việt Cộng Au Tet Mau Than 1968” của nhà sử học Phạm Văn Sơn”. Trong bài này cậu đã phê bình một số điểm trong cuốn sách này. Thật ra, cuốn này là một tập tài liệu có tên bằng tiếng Việt là “Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa của Việt Cộng Mậu Thân 1968” của QLVNCH do sử gia Phạm Văn Sơn làm chủ biên. Trong bài này, cậu đã kích một số chi tiết trong cuốn sách mà cậu cho rằng sai. Thí dụ:
Cuốn sách viết “Cuối cùng vào 5 giờ sáng, Việt Cộng tràn ngập cả khu Đại Nội và tới 8 giờ sáng thì họ chiếm được cột cờ và treo lên đó lá cờ giải phóng (trên đỏ, dưới xanh, có ngôi sao vàng ngay giữa) rất lớn”. (tr.336).
Cậu Xuân bình luận: “Phải chăng lá cờ treo trên đỉnh cột cờ Kinh thành Huế là cờ “cờ giải phóng (trên đỏ, dưới xanh, có ngôi sao vàng ngay giữa”? Đây là một sự việc mà tất cả những ai đã sống qua ở Huế trong Tết Mậu thân 1968 đều biết rất rõ: Đó là lá cờ của Mặt trận Liên minh Các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Thành phố Huế. Lá cơ ấy trên xanh, dưới xanh, ở giữa màu đỏ với một ngôi sao vàng.
“Liên minh Các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình” là cái quái gì, chúng tôi sẽ nói trong bài tới.
MỘT VÀI NHẬN XÉT
Sau khi đọc qua một vài bài biện minh cho tội tàn sát tập thể của Việt Cộng nói trên, chúng tôi có một vài nhận xét tổng quát như sau:
(1) Cần phân biệt số nạn nhân chết do chiến cuộc và số nạn nhân chết do Việt Cộng tàn sảt. Đây là hai trường hợp hoàn toàn khác nhau, không thể bày trò lập lờ đánh lận con đen để cãi chày cãi cối như bọn bồi bút đang làm.
Tài liệu của Thị Xã Huế cho biết sau 22 ngày giao tranh, đã có 944 người chết và 784 người bị thương, 4.456 căn nhà bị phá hủy hoàn toàn, 3.360 căn bị phá hủy trên 50% và 2.757 căn bị phá hủy dưới 50%.
Tài liệu kiểm kê của Bác Sĩ Elje Vannema cho biết đã khám phá ra có 19 mồ chôn tập thể với 2.326 người. Mồ chôn tập thể xa nhất là ở khe Đá Mài, cách Huế khoảng 26 cây số, với 428 người bị được tìm thấy. Tại khu này, không hề có trận đánh nào xấy ra, bị Mỹ – Ngụy dội bom hay trọng pháo, hay là đường rút quân của Cộng quân.
(2) Hà Nội đã lập trước kế hoạch tàn sát tập thể ở Huế rất kỹ càng.
Hà Nội đã chia thành phố Huế thành 4 khu do bốn cán bộ chỉ huy để thực hiện vụ thanh lọc và tàn sát: Khu Thành Nội, Khu Tả Ngạn, Khu Hữu Ngạn và Khu Gia Hội. Nguyễn Đắc Xuân chỉ huy Khu Gia Hội còn Hoàng Phủ Ngọc Tường lập tòa án ở Trường Trung Học Gia Hội để xét xử.
Chùa Từ Đàm là nơi đặt đại bản doanh của tổ chức thảm sát và cũng là nơi giam giữ và thanh lọc các nạn nhân Khu Hữu Ngạn, đa số là đồng bào công giáo đang ẩn nấp trong nhà thờ chính tòa Phủ Cam. Tại đây những người công giáo từ 15 đến 50 tuổi đều bị đi tàn sát, không cần thanh lộc hay xét xử gì cả.
(3) Trường hợp nói láo của Thiền Sư Nhất Hạnh không ai biện minh được.
Trong cuộc thuyết trình ngày tối 25.9.2001 tại thánh đường Riverside ở New York, ông cho biết thành phố Bến Tre có 300.000 người đã bị bom đạn Mỹ tiêu hủy. Sau đó, trong cuộc phỏng vấn của ký giả Anne A. Simpkinson ông lại cho biết có đến 300.000 hộ đã bị tiêu hủy. Nếu cứ lấy trung bình mỗi hộ 3 người thôi, thành phố Bến Tre phải có dân số ít nhất 900.000 người. Trong khi đó dân số thành phố Bến Tre lúc đó thật sự chỉ có khoảng 80.000 người.
Với những lời bịa đặt vĩ đại này, Thiền Sư Nhất Hạnh đáng được bầu làm người nói láo số 1 của thế kỷ 21.
(4) Vụ Tòa Khâm Sứ ở Hà Nội
Trong những tuần qua, Bộ Thông Tin và Văn Hóa đã cho một số cò mồi viết báo, lên đài phát thanh hay Paltalk loan truyền rằng Tòa Khâm Sứ ở Hà Nội là của Vatican, do dùng quyền lực của Pháp mà chiếm đoạt nên không thể giao cho Tòa Giám Mục Hà Nội được. Khi nào có bang giao với Vatican mới nói chuyện.
Trong bài “Con dường lựa chọn” được phổ biến hôm 4.1.2008, chúng tôi đã nói rõ: Tòa Khâm Sứ Vatican được được xây cất gần Nhà Thờ Chính Tòa Phủ Cam ở Huế vào khoảng năm 1930, vì lúc đó Huế là kinh đô của Việt Nam. Sau năm 1945, Huế không còn là kinh đô nữa, nên năm 1950, Đức Khâm Sứ John Dooley, người Ireland, quyết định dời Tòa Khâm Sứ ra Hà Nội. Vì lúc đó không có nhà để làm trụ sở, Đức Khâm Sứ Dooley đã mượn một phần bất động sản của Tòa Giám Mục Hà Nội để làm Tòa Khâm Sứ. Năm 1959, Đức Khâm Sứ John Dooley bị trục xuất và Tòa Khâm Sứ bị nhà cầm quyền chiếm, cho xây một khu giải trí với ý đồ phá phách nơi thờ phượng và tu hành. Tòa Giám Mục Hà Nội đã đưa các giấy tờ chứng minh chủ quyền để lấy lại, nhưng chính quyền chẳng những không trả, mà Quận Hoàn Kiếm còn tìm cách gây ồn ào thêm. Vì thế, mới có chuyện đòi lại nhà một cách quyết liệt như hiện nay.
Luận điệu phản tuyên truyền do bọn cò mồi của Bộ Thông Tin và Văn Hóa đưa ra toàn là những lời láo phét nên không lừa dối được ai.
Chúng tôi sẽ mô tả chi tiết về kế hoạch thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế của Hà Nội do Tướng Trần Văn Quang chỉ huy trong số báo tới.

Tú Gàn

Wednesday, February 13, 2008

 

Tang lễ cụ Hoàng Minh Chính,




Tang lễ cụ Hoàng Minh Chính,
Nhà Dân chủ Tranh đấu lão thành quốc nội
sẽ cử hành vào lúc 9g30 ðến 11g30
ngày 16-02-2008 (mồng 10 Tết)
tại Nhà Tang lễ bệnh viện Thanh Nhàn,
44-Thanh Nhàn, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, VN
Mọi tổ chức, đoàn thể, cá nhân trong và ngoài nước
có thể gởi điện hoa đến địa chỉ nói trên để phúng điếu.
Tang gia xin hết lòng cảm tạ.

Kính báo
Nhóm phóng viên FNA Việt Nam

 

Các nhà dân chủ quốc nội bị cấm cản...

Các nhà dân chủ quốc nội bị cấm cản dự
đám tang của cụ Hoàng Minh Chính
(Bản tin ngày 12-02-2008)

Tin tức mới nhất cho biết, sáng nay, lúc 10g ngày 12-01-2008 (mồng 6 Tết Mậu Tý), kỹ sư Đỗ Nam Hải, thành viên Ban Đại diện lâm thời Khối 8406, đang cư ngụ tại Sài gòn, định lấy taxi ra phi trường bay ra Hà Nội dự đám tang của cụ Hoàng Minh Chính, nhà đấu tranh dân chủ lão thành vừa qua đời hôm mồng một Tết.
Nhưng mới ra khỏi nhà ở số 441 Nguyễn Kiệm, phường 9, quận Phú Nhuận, được vài bước, kỹ sư Đỗ Nam Hải đã bị một toán công an chặn lại và hỏi ông đi đâu. Kỹ sư Hải thẳng thắn trả lời: “Tôi ra Hà Nội dự đám tang cụ Hoàng Minh Chính. Yêu cầu các anh tránh ra kẻo tôi trễ giờ đến phi trường”. Bất chấp luật pháp, toán công an này, đứng đầu là một trung tá, vẫn dùng vũ lực để cưỡng bức kỹ sư Hải vào lại nhà mà rằng: “Ông không được phép ra Hà Nội trong lúc này, hiểu chưa!”. Kỹ sư Hải vặn lại: “Ai cho phép các anh ngăn cản quyền đi lại của công dân? Tôi sẽ tố cáo các anh về tội này!” Nhưng nói gì thì nói, miệng của công an là mệnh lệnh, tay của công an là luật pháp, cuối cùng Kỹ sư Hải đã bị cả bọn “ngu trung đầu gấu” này tống vào nhà.
Tại Hải Phòng cũng xảy ra sự việc tương tự với nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, thành viên khác trong Ban Đại diện lâm thời Khối 8406. Số là từ hôm mồng hai Tết (08-02-2008), công an địa phương và Hà Nội đã đến tư gia của nhà văn để “mặc cả” về chuyện đi Hà Nội dự đám tang cụ Chính. Một là họ sẽ tìm mọi cách ngăn cản nếu ông vẫn tự lên Hà Nội, hai là họ sẽ đưa vợ chồng ông đi bằng xe của họ!?! Dĩ nhiên nhà văn từ chối giải pháp thứ hai. Hôm qua, 11-02, nhà văn đến tư gia cô Phạm Thanh Nghiên để dùng cơm cùng với bà Trần Thị Lệ (mẹ luật sư Công Nhân đồng thời là họ hàng với cô Nghiên), công an cũng bám theo ông sát nút. Sau đó họ về tận nhà ông, ngang nhiên đe dọa sẽ có vụ “Lưu Quang Vũ thứ hai”. Nghĩa là CS sẽ dàn dựng một vụ tông xe để giết chết nhà văn như cách đây hơn một thập niên, họ từng giết chết kịch tác gia Lưu Quang Vũ (một người có đầu óc phê phán chế độ) và vợ là thi sĩ Xuân Quỳnh cùng đứa con nhỏ qua một tai nạn giao thông trên đường từ Hải Phòng lên Hà Nội.
Lời đe dọa này không làm cho nhà văn nao núng và ông vẫn quyết định lên Hà Nội dự tang lễ, trù định tổ chức ngày mồng 10 Tết (16-02-2008). Do đó, công an bèn đóng chốt hẳn trước nhà ông. Cho tới khi chúng tôi loan tin này, một chiếc xe công an mang biển số Hà Nội vẫn nằm chình ình trước tư gia nhà văn đối kháng bất khuất của chúng ta.
Xin nói thêm là cô Phạm Thanh Nghiên, một nhà dân chủ trẻ tuổi và gan lỳ khác tại Hải Phòng cũng bị công an đối xử như với nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa. Nhưng cô vẫn quyết liệt đi làm nghĩa cử cuối cùng với cụ Hoàng Minh Chính, bậc đấu tranh tiền bối, lão thành mà hầu hết mọi nhà dân chủ quốc nội đều mến yêu, thương tiếc và cảm phục.
Nghĩa tử là nghĩa tận ! Việc tang chế là điều thiêng liêng đối với con người và nhất là đối với người Việt Nam ta. Thế nhưng CS vẫn chà đạp lên truyền thống tốt đẹp, đạo lý ngàn năm này. Đây lại thêm một tội ác đối với nền văn hóa nhân bản của đất nước, sau tội ác chà đạp ngày Tết thiêng liêng của dân tộc với cuộc tàn sát man rợ đồng bào cách đây 40 năm, nhân dịp tết Mậu Thân.
Phóng viên FNA tường trình từ Huế

 

Đấu tranh cho Tự do Tôn giáo tại Huế

Bản tin ngày 10-02-2008
Cộng sản muốn cướp con đường riêng của Đan viện Thiên An, Huế
Lời giới thiệu: Theo dõi tin tức thời sự từ lâu, đồng bào VN trong và ngoài nước đều đã biết nhà cầm quyền CSVN tại Huế, đứng đầu là Hồ Xuân Mãn và Nguyễn Xuân Lý, đã ăn cướp 102 trên 107 héc-ta đất của đan viện Thiên An từ năm 2001 để làm Trung tâm vui chơi giải trí Hồ Thủy Tiên (xin xem hình), chỉ để lại cho các đan sĩ mỏm đồi trọc có nguyện đường và tu viện cùng vườn cam và vườn rau dưới đồi, bên cạnh hồ (xin xem bản đồ). Nhưng thiên bất dung gian, Trung tâm vui chơi giải trí này đang lâm vào tình trạng ế ẩm và lỗ lã. Vé vào cổng chính và vào nhà Rồng mỗi nơi đã từ 50.000 đồng giảm xuống cỏn 15.000 đồng nhưng chẳng mấy ai đến vui chơi.
Sau đó, bọn cướp ngày này lại muốn triệt hạ nguồn sống của các đan sĩ bằng cách mưu toan lấy luôn cả vườn rau. Dựa vào một nghiên cứu vu vơ nào đó, chúng cho rằng lăng Ba Vành -nằm cận kề vườn rau- là dấu tích lăng mộ vua Quang Trung. Vì thế vùng đất chung quanh -theo chúng nói- cần phải được nhà nước quản lý bằng cách giao cho một đơn vị quân đội để đơn vị này trấn giữ khu lăng mộ !?! (đang khi các lăng tẩm triều Nguyễn không có đơn vị quân đội nào bảo vệ bên cạnh cả). Vì vấn đề di tích lăng mộ vua Quang Trung còn đang tranh cãi (xin tìm đọc trên Google.com) nên vườn rau cũng đang trong vòng tranh chấp. Tuy nhiên tu viện có thể bị mất nguồn lương thực này bất cứ lúc nào. Vườn rau này lại có một giếng lớn, dùng tưới cả vườn cam bên cạnh. Vậy là cả vườn cam, nguồn thu nhập chính hiện nay của các đan sĩ, cũng sẽ có thể tiêu đời luôn !!!
Mới đây, CS lại bày thêm một trò mới, nhằm tiến dần tới việc chiếm trọn đan viện. Đó là chúng lếu láo tuyên bố rằng con đường độc đạo dẫn vào Đan viện (và chỉ dẫn vào Đan viện thôi) do các đan sĩ đã tự mình làm và sử dụng từ năm 1940 đến nay là “con đường liên thôn, không nằm trong khuôn viên Đan viện, các đan sĩ không có quyền tu bổ sữa chữa, mà phải được nhà nước quản lý” (xin xem bản đồ và văn bản của UBND huyện Hương Thủy). Các đan sĩ đã phản đối kịch liệt trò xuyên tạc và ăn cướp này (xin xem Kháng thư của Đan phụ). Nếu âm mưu mới này của CS thành tựu, các đan sĩ một là bị kiểm soát đường đi nước bước, hai là không có lối ra vào, ba là các hàng quán, biệt thự sẽ mọc ra hai bên, đến sát tu viện. Thế thì làm sao các đan sĩ có được nội vi cần thiết và tối thiểu để yên tĩnh tu hành? Các vị chỉ còn có nước rút đi, vào sâu trong rừng trong núi thôi. Mà có được cấp đất trong núi rừng hay không lại là một chuyện khác, vì mọi tài nguyên đất đai đều thuộc quyền quản lý của nhà nước, nghĩa là thuộc quyền sở hữu của đảng CS!!!
Mất đất đai nội vi (102/107 ha), mất nguồn thu nhập và lương thực (vườn rau và vườn cam), mất con đường độc đạo ra vào, quả thật đan viện Biển đức Thiên An đang đứng trước lâm nguy bị xóa sổ. Việc này lại xảy ra trùng thời điểm với việc CS chiếm thêm đất của giáo xứ Thái Hà và chưa có dấu hiệu gì trả lại đất của tòa Khâm sứ ở Hà Nội. CS muôn đời vẫn là CS !!!
Chúng tôi xin gởi đến bản tin này như lời báo động với đồng bào và toàn thế giới và như bằng chứng về tội ác mới của đảng CSVN. Xin vui lòng dịch ra ngoại ngữ để phổ biến cho Quốc tế.
Nhóm Phóng viên FNA tường trình từ Huế


Cổng chính vào khu vui chơi (hình trái) và Nhà rồng (còn gọi là Thủy cung) nằm giữa hồ Thủy tiên (hình phải). Vườn rau và vườn cam nằm ở hậu cảnh, phía sau cây cầu bên trái.



Hai tên ăn cướp đất đai Đan viện đã ngang nhiên để lại dấu vết tại hiện trường (hình chụp trong khuôn viên Trung tâm vui chơi giải trí)









 

Hướng về lễ kỷ niệm 40 năm MẬU THÂN

Cuộc Thảm Sát Tại KHE ĐÁ MÀI

LM Nguyễn Hữu Giải, LM Phan Văn Lợi


Vài lời mở đầu

Biến cố tết Mậu Thân sắp được hầu hết toàn thể dân tộc VN, đặc biệt nhân dân miền Nam, kỷ niệm lần thứ 40 với trái tim vẫn còn rỉ máu, vì hàng trăm ngàn nạn nhân của cuộc thảm sát này –mãi cho tới hôm nay- chưa bao giờ nghe được một lời tạ lỗi và thấy được một cử chỉ sám hối từ phía các tay đồ tể là đảng CSVN, đồng bào ruột thịt của họ. Chúng tôi nói là hàng trăm ngàn người, vì ngoài con số 14.300 nạn nhân vô tội gồm tu sĩ, công chức, giáo sư, giáo viên, sinh viên, học sinh, dân thường ở miền Nam (riêng Huế chiếm gần một nửa), còn phải kể đến 100.000 bộ đội miền Bắc (con số do chính CS đưa ra) đã bị nướng vào cuộc tàn sát dân tộc này, cuộc tàn sát man rợ nhất lịch sử đất nước mà người chủ xướng là Hồ Chí Minh và các lãnh đạo cao cấp trong đảng CS thời đó.

Chúng tôi viết lên bài này như nén hương lòng tưởng nhớ các ân sư, thân nhân, bằng hữu, đồng nghiệp của chúng tôi đã bị CS tàn sát trong biến cố ấy như 3 linh mục người Huế là Hoàng Ngọc Bang, Lê Văn Hộ, Nguyễn Phúc Bửu Đồng, ba linh mục người Pháp là Guy, Cressonnier và..., 3 tu sĩ dòng Thánh Tâm là Héc-man, Bá Long, Mai Thịnh, ba chủng sinh là Nguyễn Văn Thứ, Phạm Văn Vụ và Nguyễn Lương, hai sư huynh dòng La San là Agribert và Sylvestre cùng nhiều người khác… Chúng tôi cũng viết lên bài này như lời kêu gọi đảng và nhà cầm quyền CSVN phải biết thừa nhận sự thật, lãnh nhận trách nhiệm, công nhận tội ác tầy trời mà chính họ đã gây ra cho dân tộc VN trong những ngày xuân năm 1968, phải chấm dứt ngay việc trình bày biến cố Mậu Thân như một chiến thắng lừng lẫy, phải phục hồi danh dự cho các oan hồn bằng cách chính thức tạ tội và để tự do cho bất cứ cá nhân hay tập thể nào tưởng nhớ các nạn nhân này, phải tôn tạo ít nhất ngôi mộ tập thể chôn cất di hài của họ tại núi Ba Tầng (núi Bân), phía Nam thành phố Huế. Ngôi mộ này lưu giữ hơn 400 bộ hài cốt chủ yếu bốc từ Khe Đá Mài nhưng đã bị chính CS phá đổ trụ bia và để cho hoang phế suốt 32 năm trời.

Đây cũng là điều mà mới đây, trong Thỉnh nguyện thư viết ngày 29-09-2007 cùng 124 Kitô hữu VN khác, chúng tôi đã đề nghị với Hội đồng Giám mục Việt Nam: “ Việc tưởng nhớ, cầu nguyện, minh oan cho họ (các nạn nhân biến cố Mậu Thân) để linh hồn họ được giải thoát, gia đình họ được an ủi là căn cốt trong truyền thống của mọi tôn giáo và nhất là của Kitô giáo. Đây cũng là cơ hội để các đao phủ thảm sát đồng bào bày tỏ thành tâm thiện chí, thống hối lỗi lầm, dọn đường cho việc hòa giải dân tộc cách đích thực. Nhớ lại năm 2002, nhân kỷ niệm 30 năm biến cố Đại lộ kinh hoàng Quảng Trị (1972), Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã làm lễ cầu siêu cho các nạn nhân. Chúng con thiết tưởng Công giáo chúng ta cũng nên nhân cơ hội tưởng niệm 40 năm biến cố Tết Mậu Thân để làm nghĩa cử đối với các oan hồn uổng tử đồng bào đồng đạo. Vậy chúng con kính xin Quý Đức Cha và Hội đồng Giám mục can đảm tổ chức lễ cầu nguyện khắp nơi cho các nạn nhân vô tội, đặt ra một ngày tạm gọi là “ngày nhớ Mậu thân”. Đồng thời yêu cầu nhà cầm quyền cộng sản dựng một tấm bia mới tại nghĩa trang Ba Tầng (thành phố Huế), nơi chôn cất hài cốt của hơn 400 nạn nhân, vì tấm bia cũ đã bị phá hủy ngay sau năm 1975 ”.

Trong toàn bộ biến cố Tết Mậu Thân, có lẽ những gì xảy ra tại Huế là đau thương và đánh động hơn cả. Nhưng trong những gì xảy ra tại Huế, thì có lẽ cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài là rùng rợn, dã man và thê thảm nhất. Tiếc thay, theo sự am hiểu của chúng tôi, hình như người ta chỉ biết đến kết cục của nó là hàng trăm bộ hài cốt dồn lại một đống dưới khe sau khi thịt thối rữa bị nước cuốn đi lâu ngày, từ đó suy diễn ra sự việc hơn là biết rõ diễn tiến của toàn bộ sự việc kể từ lúc các nạn nhân bắt đầu bị dẫn đi đến chỗ hành quyết. Lý do là vì chỉ có hai con người duy nhất trong đoàn tử tội đã chạy thoát được trước khi thảm kịch xảy đến, họ nắm được một ít chi tiết nhưng lại chẳng biết rõ địa điểm, do vụ việc xảy ra giữa đêm khuya trong rừng già; họ lại còn quá trẻ rồi sau đó đăng lính, mất hút vào cơn bão chiến tranh, khiến mãi tới ngày 19-09-1969, tức gần hai năm sau, nhờ khai thác tù binh Việt cộng, chính phủ VNCH mới biết đó là Khe Đá mài trong vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc, thuộc quận Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên (xã Dương Hòa, huyện Hương Thủy ngày nay) và mới tiến hành việc tìm kiếm hài cốt các nạn nhân xấu số. Thời gian sau, một trong hai người đã chết trận, đem theo bí mật xuống đáy mồ. Chúng tôi may mắn gặp được chứng nhân duy nhất còn lại, nay gần lục tuần. Ông đã tường thuật mọi việc cho chúng tôi khá tỉ mỉ. Nhưng vì lý do an ninh của đương sự, chúng tôi viết theo dạng tự thuật để khỏi nêu tên ông. Chúng tôi cũng xin phép bỏ đi nhiều chi tiết có thể giúp CS lần hồi dấu vết của ông để báo thù.

Lm Phêrô Nguyễn Hữu Giải
Lm Phêrô Phan Văn Lợi

************ ********* ********* **

Hồi ấy tôi mới 17 tuổi, đang là học sinh trung học đệ nhị cấp. Vì tình hình bất an, gia đình tôi đã từ quê chạy về thành phố, cư ngụ tại giáo xứ Phủ Cam, thôn Phước Quả, xã Thủy Phước, tỉnh Thừa Thiên (nay gọi là phường Phước Vĩnh, thành phố Huế) từ mấy năm trước.

Sáng sớm mồng một tết Mậu Thân, tôi cùng gia đình đi thăm bà con thân thuộc và du xuân với các bạn đồng trang lứa, trong một khung cảnh tạm an bình, vắng tiếng súng, nhờ cuộc hưu chiến mà hai miền Nam Bắc đã cam kết tuân giữ.

Bỗng nhiên, khuya mồng một rạng mồng hai tết, nhiều tiếng đại bác và súng lớn súng nhỏ vang rền khắp xứ đạo của chúng tôi. Sáng hôm sau, tôi nghe nói Việt Cộng đang tấn công vào toàn bộ thành phố Huế và đã chiếm nhiều nơi rồi. Hoảng hốt, cả gia đình tôi cũng như rất nhiều giáo dân chạy đến nhà thờ (lúc ấy mới hoàn thành phần cung thánh và hai cánh tả hữu) để ẩn trú, vì đó là nơi an toàn về mặt thể lý (xây vững chắc, tường vách dày, trần xi măng rất cao) cũng như về mặt tâm lý (có thể trông cậy vào ơn phù hộ của Chúa và đông đảo người bên nhau thì bớt hãi sợ…). Tôi thấy đủ hạng: nữ nam già trẻ, linh mục tu sĩ, ngồi chen chúc nhau cả mấy ngàn người (giáo xứ Phủ Cam lúc đó lên tới 10.000 giáo dân). Đang khi ấy, ở bên ngoài, lực lượng địa phương quân, nhân dân tự vệ cùng các quân nhân chính quy về nghỉ phép hợp đồng tác chiến, chống giữ không cho Cộng quân tiến vào giáo xứ từ hướng An Cựu, Bến Ngự, Nam Giao, Ngự Bình... Cuộc chiến đấu xem ra rất ác liệt!

Thế nhưng, đến chiều mồng 6 Tết, do lực lượng quá nhỏ, lại không có tiếp viện (vì mặt trận lan khắp cả thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên), các chiến sĩ đang bảo vệ giáo xứ đành phải rút lui, bỏ chạy. Thế là VC tràn vào! Khuya hôm đó, lúc 1g sáng, chúng mang AK và đèn đuốc xông vào nhà thờ Phủ Cam để gọi là “bắt đầu hàng” và lục soát mọi ngõ ngách. Sau này tôi mới biết chúng có ý lùng bắt cha xứ mà chúng nghi là người chỉ huy cuộc kháng cự, lùng bắt tất cả những ai mà chúng nghĩ đã chống cự lại chúng trong 5 ngày qua, cùng mọi cán bộ viên chức chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, như xảy ra tại nhiều nơi khác trong thành phố Huế lúc ấy.

Thấy chúng vừa xuất hiện, tôi liền lợi dụng bóng tối, nhanh chân chạy đến cầu thang sắt phía cánh trái nhà thờ (gần mộ Đức Cố Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền hiện nay), leo lên trần xi măng, sát mái ngói. Từ trên đó, qua mấy lỗ trổ sẵn để gắn đèn cao áp (nhưng chưa gắn), tôi mục kích khá rõ sự việc diễn ra bên dưới. Tôi thấy lố nhố VC địa phương (du kích nằm vùng) lẫn bộ đội chính quy miền Bắc. Chúng lật mặt từng người, chỉ chỏ bên này bên kia. Một câu nói được lặp đi lặp lại:

- Đồng bào yên tâm! Cách mạng đến là để giải phóng! Các mẹ, các chị, các em có thể ra về. Còn các anh được mời đi học tập, chỉ 3 ngày thôi! Không sao đâu!!!

Thế là mọi tráng niên và thanh niên từ 15 đến 50 tuổi đều bị lôi đứng dậy và dẫn đi, dù là học sinh, thường dân hay công chức…. Tiếng kêu khóc thảm thiết vang động cả nhà thờ. Con khóc cha, vợ khóc chồng, cha mẹ khóc con. Ai nấy linh cảm chuyến đi “học tập” này sẽ chẳng có ngày đoàn tụ. Sau này tôi biết thêm là linh mục quản xứ chúng tôi, cha Nguyễn Phùng Tuệ, nhờ ngồi giữa đám nữ tu dòng Mến Thánh Giá với lúp đội trên đầu, nên may mắn chẳng bị VC nhận diện. Bằng không thì bây giờ ngài đã xanh cỏ. VC ở lại trong nhà thờ suốt đêm hôm đó vài tên, còn những tên khác đi lùng khắp giáo xứ để bắt thêm một số người nữa, cũng từ 15 đến 50, thành thử có nhiều thanh niên hay học sinh gặp nạn.

Sáng hôm sau, lúc 8 giờ, bỗng có hai tên VC theo thang sắt trèo lên trần và khám phá ra tôi. Một đứa tên Hồ Sự, du kích gốc Long Hồ, vừa được đồng bọn giải thoát khỏi nhà lao Thừa Phủ (là nhà lao nằm giữa lòng thành phố Huế, ngay sau lưng tòa hành chánh tỉnh). Tên kia là Đỗ Vinh, sinh viên, người gốc làng Sịa. Sau khi lôi tôi xuống, chúng hỏi tôi tại sao lại trèo lên núp (nấp). Tôi trả lời là vì nghe con nít khóc ồn ào, chịu không nổi, phải trèo lên đấy để nghỉ.

Chúng dẫn một mình tôi -lúc ấy chẳng còn hồn vía gì nữa- đi xuống dốc nhà thờ, nhưng đến chắn xe lửa thì quẹo trái, men theo đường xe lửa tới chắn Bến Ngự. Từ đây, chúng dẫn tôi lên chùa Từ Đàm là nơi VC đang đặt bản doanh. Chúng rất đông đảo, vừa sắc phục vừa thường phục, vừa bộ đội miền Bắc vừa du kích nằm vùng miền Nam . Vào trong khuôn viên chùa, tôi nhận thấy ngôi nhà tăng 5 gian thì 4 gian đã đầy người bị bắt, đa số là giáo dân giáo xứ Phủ Cam của tôi. Gian thứ 5 (đối diện với cây bồ đề) còn khá trống, để nhốt những người bị bắt trong ngày mồng 7 Tết. Tôi cũng trông thấy ông Tin, chủ hiệu ảnh Mỹ Vân, người rất đẹp trai, đang bị trói nơi cây mít. Một tên VC nói:

- Thằng ni trắng trẻo chắc là cảnh sát, bắn quách nó đi cho rồi!

May thay, có một người trong nhóm bị bắt đã vội lên tiếng:

- Tội quá mấy anh ơi, đây là ông Tin chụp ảnh tại Bến Ngự, cảnh sát mô mà cảnh sát!

Nhờ thế ông Tin thoát nạn, được cho về. Tiếp đó, VC đưa cho tôi một tờ giấy để làm bản lý lịch. Chúng bảo phải khai rõ tên cha, tên mẹ, tên mình, nguyên quán ở đâu, cha mẹ làm chi, bản thân bây giờ làm chi. Khai rõ ràng chính xác, Cách mạng sẽ khoan hồng. Khai tơ lơ mơ, khai dối láo là bắn ngay tại chỗ. Lúc ấy không hiểu sao Chúa cho tôi đủ sự thông minh và điềm tĩnh nên đã khai hoàn toàn giả, giả từ tên cha mẹ đến tên mình, và giả mọi chi tiết khác, như nghề của cha là kéo xe ba gác, nghề của mẹ bán rau hành ở chợ Xép, bản thân thì đang học trường Kỹ thuật!?! May mà bọn VC chẳng kiểm tra chéo bằng cách hỏi những người cùng giáo xứ bị bắt đêm hôm trước. Bằng không thì tôi cũng rồi đời tại chỗ!

Chúng tôi ngồi tại chùa Từ Đàm suốt cả ngày mồng 7 Tết, không được cho ăn gì cả. Lâu lâu tôi lại thấy VC dẫn về thêm một số tù nhân, trong đó tôi nhớ có cậu Long, 16 tuổi, học sinh, con ông Nguyện ở xóm Đường Đá giáo xứ Phủ Cam. Thỉnh thoảng chúng lại trói ai đó vào gốc cây bồ đề, bắn chết rồi chôn ngay trong sân chùa. Sau này người ta đếm được có 20 xác, trong đó có anh Hoàng Sự, vốn là cảnh sát gác lao Thừa Phủ, bị đám VC khi được thoát tù đã bắt đem theo lên đây.

VC cũng cho một vài kẻ về nhắn thân nhân bới cơm nước lên cho người nhà, nhưng với điều kiện: nhắn xong phải đến lại trong ngày, bằng không bạn bè sẽ bị chết thế. Thế là một số anh em Phủ Cam lên tiếng xin thả ông Hồ (khá lớn tuổi, làm nghề hớt tóc, nhà ở gần cabin điện đường Hàm Nghi) để ông về lo chuyện tiếp tế thực phẩm. Tay VC liền hỏi: “Ai tên Hồ?” thì có một cậu thanh niên nào đó nhảy ra nói: “Hồ đây! Hồ đây!” Thế là nó được thả về và rồi trốn luôn, thoát chết. Một vài bạn trẻ cùng tuổi với tôi cũng được cho về nhắn chuyện bới xách rồi quyết không lui, nhờ vậy thoát khỏi cơn thảm tử. Còn ai vì hãi sợ hay thương bạn mà lên lại Từ Đàm thì cuối cùng bị mất mạng như tôi sẽ kể. Các “sứ giả” về thông báo với bà con là ai có thân nhân “đi học tập” hãy bới lương thực lên chùa Từ Đàm. Vậy là vài hôm sau, người ta ùn ùn gánh gồng lên đó gạo cơm, cá thịt, muối mắm, bánh trái ê hề (Tết mà!)… Họ chẳng thấy thân nhân đâu mà chỉ gặp mấy tên cán bộ VC bảo họ hãy an tâm trở về nhưng để đồ ăn lại. Nhờ mưu mô thâm độc này mà VC tạo được một kho lương thực khổng lồ để ăn mà đi giết người tiếp!!

Lân la dò hỏi và nhìn quanh, tôi thấy trong số thanh niên Phủ Cam bị bắt có rất nhiều người bạn của tôi: anh Trị tây lai con ông Ngọc đàn ở nhà thờ, con trai ông Hoàng lương y thuốc Bắc ở chợ Xép, hai con trai ông Thắng nấu rượu, hai con trai ông Vang thổi kèn, anh Thịnh con ông Năm, hai anh em Bình và Minh con ông Thục mà một là bạn học với cha Phan Văn Lợi… Tôi cũng nghe nói có hai thầy đại chủng viện mà sau này tôi mới biết là thầy Nguyễn Văn Thứ, nghĩa tử của cha Nguyễn Kim Bính và bạn cùng lớp với cha Nguyễn Hữu Giải, rồi thầy Phạm Văn Vụ, đồng nghĩa phụ với cha Lợi…

Khi trời bắt đầu sẫm tối, VC bắt chúng tôi ra sân xếp hàng và một tên tuyên bố:

- Anh em yên tâm! Như đã nói, Cách mạng đưa anh em đi học tập 3 ngày cho thấm nhuần đường lối rồi sẽ về thôi! Bây giờ chúng ta lên đường!

Rồi chúng bắt đầu dùng dây điện thoại trói thúc ké từng người một chúng tôi, trói xong chúng xâu lại thành chùm bằng một sợi dây kẽm gai, 20 người làm một chùm. Tôi nhớ là đếm được trên 25 chùm, tức hơn 500 người.

Khi chúng tôi bị lôi ra đường (đường Phan Bội Châu hiện giờ), chừng 7g tối, tôi thấy có một đoàn cố vấn dân sự Hoa Kỳ khoảng 14 người cũng bị trói nhưng sau đó được dẫn đi theo ngã khác hẳn. Áp giải chúng tôi lúc này không phải là VC nằm vùng, địa phương, nhưng là bộ đội miền Bắc, khoảng 30 tên. Bọn nằm vùng ở lại để đi bắt người tiếp. Bỗng một kẻ mặc áo thầy chùa xuất hiện, đến cạnh chúng tôi mà nói:

- Mô Phật! Dân Phủ Cam bị bắt cũng nhiều đây! Chỉ thiếu Trọng Hê và Phú rỗ!

Trọng (con ông Hê) và Phú (mặt rỗ) là hai thanh niên công giáo, nhưng lại là “tay anh chị” khét tiếng cả thành phố. Về sau tôi được biết đa phần những thanh niên bị bắt đêm mồng 6 Tết tại nhà thờ Phủ Cam và sau đó bị giết chết đều là học sinh, sinh viên, thanh niên nhút nhát hiền lành. Còn hạng can đảm, có máu mạo hiểm hay hạng “du dãng, anh chị” đều đã đi theo binh lính, dân quân để chiến đấu tự vệ hoặc nhanh chân trốn chạy, không tới nhà thờ trú ẩn, nên đều thoát chết. Sự đời thật oái oăm!

Hết đường Phan Bội Châu, chúng tôi đi vào đường Tam Thai (bên trái đàn Nam Giao), sau đó men theo đường vòng đan viện Thiên An, xuôi về lăng Khải Định (xin xem bản đồ). Từ con đường trước lăng Khải Định, VC dẫn chúng tôi bọc phía sau trụ sở quận Nam Hòa (lúc đó chưa bị chiếm), ra đến bờ sông Tả Trạch (thượng nguồn sông Hương). Chúng tôi lầm lũi bước đi trong bóng tối, giữa trời mờ sương và giá lạnh, vừa buồn bã vừa hoang mang, tự hỏi chẳng biết số phận mình rồi ra thế nào, tại sao VC lại tấn công vào đúng ngày Xuân, giữa kỳ hưu chiến!?!

Tới bờ sông, VC cho chặt lồ ô (nứa) làm bè để tất cả đoàn người vượt qua phía bên kia mà sau này tôi mới biết là khu vực lăng Gia Long, thuộc vùng núi Tranh hay còn gọi là vùng núi Đình Môn Kim Ngọc. Lúc ấy vào khoảng 9g tối. Từ đó, chúng tôi bắt đầu đi sâu vào rừng, lúc lên đồi, lúc xuống lũng, lúc lội qua khe, lần theo con đường mòn mà thỉnh thoảng lại được soi chiếu bằng những cây đèn pin hay vài ngọn đuốc của 30 tên bộ đội. Tôi thoáng thấy tre nứa và cây cổ thụ dày đặc. Trời mưa lâm râm. Đến khoảng 11g rưỡi đêm, chúng tôi được cho dừng lại để tạm nghỉ ăn uống. Tôi đoán chừng đã đi được hơn chục cây số. Mỗi người được phát 1 vắt cơm muối mè, đựng trên lá ráy. Hai cánh tay vẫn bị trói. Ít người ăn nổi. Riêng tôi làm 2 vắt.

Ăn xong thì được cho ngủ. Chúng tôi ngồi gục đầu dưới cơn mưa, cố gắng chợp mắt để lấy lại sức. Bỗng nhiên như có linh tính, tôi chợt choàng dậy và thấy rung động toàn thân hết sức dữ dội. Máu tôi sôi sùng sục trong đầu. Có chuyện chẳng lành rồi đây! Quả thế, tôi thoáng nghe hai tên VC gần kề nói nhỏ với nhau: “Trong vòng 15–20 phút nữa sẽ thủ tiêu hết bọn này!” Tôi nghe mà bủn rủn cả người! Nghĩ mình đang là học sinh vô tội, lại còn trẻ trung, thế mà 15 phút nữa sẽ bị giết chết, tôi như muốn điên lên. Dù thế tôi vẫn cầu nguyện: “Lạy Chúa, từ lâu Chúa dạy con phải hiền lành thật thà, không được làm hại ai, vậy mà giờ đây lại có người muốn giết con và các bạn của con nữa. Xin Chúa ban cho con mưu trí, can đảm và sức mạnh để tự giải thoát mình…”. Tôi ghé miệng vào tai thằng bạn bị trói ngay trước mặt: “Tụi mình rán mở dây mà trốn đi! Mười lăm phút nữa là bọn hắn bắn chết hết đó!”. Chúng tôi quặt ra tay sau, âm thầm lần múi dây trói. Nhờ trời vừa mưa vừa tối, dây điện thoại lại trơn nên chỉ ít phút sau là nút buộc lỏng, vung mạnh cánh tay là sẽ bung ra. Chúng tôi cũng mở múi buộc dây thép gai đang nối mình với những người khác. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn giữ vị thế bị trói thúc ké, để bọn VC khỏi nghi ngờ. Tôi dặn thằng bạn tiếp: “Hễ tao vỗ nhẹ sau lưng là tụi mình chạy nghe!”

Đánh thức chúng tôi dậy xong, một tên lên tiếng nói lớn cho cả đoàn:

- Chúng ta sắp đến trại học tập rồi. Vậy trong anh em ai có một là vàng, hai là tiền, ba là đồng hồ, bốn là bật lửa thì nộp lại để Cách mạng giữ cho, học xong 3 ngày sẽ trả. Kẻo vào trại, ăn cắp lẫn nhau rồi lại đổ lỗi cho Cách mạng, nói xấu cán bộ!

Thế là mọi người riu ríu và khổ sở móc ra những thứ quý giá còn giữ trong người. Ai chậm chạp hoặc ngần ngừ thì mấy tên bộ đội tới “giúp” cho. Bọn chúng lột sạch và cho tất cả vào mấy cái ba lô vải. Lúc đó tôi mới để ý thấy tay bộ đội áp giải chùm của tôi đang mang trên hai vai và cột quanh lưng ít nhất cả chục cái radio lớn nhỏ mà chắc hắn đã cướp được của dân dưới thành phố. Với khẩu AK trên tay lại thêm từng ấy máy móc trên người, hắn bước đi lặc lè, chậm chạp, khá cách quãng mấy tên khác.

Chúng tôi lại bắt đầu đi xuống dốc. Tôi nghe có tiếng nước róc rách gần kề. Lại một khe nữa! Được vài bước, tôi vỗ nhẹ vào lưng thằng bạn. Cả hai chúng tôi vung tay, dây tuột, và nhanh nhẹn phóng ra khỏi hàng. Lấy hết sức bình sinh, tôi đá mạnh vào gót rồi vào dưới cằm tên bộ đội áp giải (tên mang cả chùm radio ấy!). Hắn ngã nhào. Hai chúng tôi lao vào rừng lồ ô. Bọn VC tri hô lên: “Bắt! Bắt! Có mấy thằng trốn” rồi nổ súng đuổi theo chúng tôi. Chạy khoảng mấy chục mét, thoáng thấy có một lèn đá -vì trời không đến nỗi tối đen như mực- tôi kéo thằng bạn lòn vào trong mất dạng. Tôi dặn hắn: “VC nó kêu, nó dụ, tuyệt đối không bao giờ ra nghe! Ra là chết!” Một lúc sau, tôi nghe có tiếng nói trong bóng đêm: “Bọn chúng chạy mất rồi, nhưng rừng sâu thế này khó mà thoát chết nổi! Thôi đi tiếp!!!”.

Khi nghe tiếng đoàn người đi khá xa, chúng tôi mới bò ra khỏi lèn, đi ngược lên theo hướng đối nghịch. Chừng 15-20 phút sau, tôi bỗng nghe từ phía dưới vọng lên tiếng súng AK nổ vang rền và lựu đạn nổ tới tấp, phải mấy chục băng và mấy chục quả. Một góc rừng rực sáng! Chen vào đó là tiếng khóc la khủng khiếp –chẳng hiểu sao vọng tới tai chúng tôi rõ ràng- khiến tôi dựng tóc gáy, nổi da gà và chẳng bao giờ quên được. Hai chúng tôi đồng nấc lên: “Rứa là chết cả rồi! Rứa là chết cả rồi! Trời ơi!!!” Lúc đó khoảng 12 đến 12g30 khuya đêm mồng 7 rạng ngày mồng 8 Tết. Tôi bàng hoàng bủn rủn. Sao lại như thế? Các bạn tôi dưới ấy đều là những người hiền lành, chưa lúc nào cầm súng, chưa một ngày ra trận, chẳng hề làm hại ai, họ có tội tình gì? Bọn chúng có còn là người Việt Nam nữa không? Có còn là người nữa không? Sau này tôi mới biết đấy là vụ thảm sát khủng khiếp nhất trong cuộc chiến Quốc-Cộng. Địa danh Khe Đá Mài –mà lúc ấy tôi chưa rõ- in hằn vào lịch sử nhân loại và cứa vào da thịt dân tộc như một lưỡi dao sắc không bao giờ cùn và một thỏi sắt nung đỏ chẳng bao giờ nguội.

Chúng tôi tiếp tục chạy, chạy mãi, bất chấp lau lách, gai góc, bụi bờ, vừa chạy vừa thầm cảm tạ Chúa đã cho mình thoát chết trong gang tấc nhưng cũng thầm cầu nguyện cho những người bạn xấu số vừa mới bị hành quyết quá oan ức, đau đớn, thê thảm. Sáng ra thì chúng tôi gặp lại con sông. Biết rằng bơi qua ngay có thể gặp bọn VC rình chờ bắt lại, chúng tôi men theo sông, ngược lên thượng nguồn cả mấy cây số, đến vùng Lương Miêu thượng. Tới chỗ vắng, tôi hỏi thằng bạn:

- Mày biết bơi không?

- Không!

- Tao thì biết. Thôi thì hai đứa mình kiếm hai cây chuối. Mày ôm một cây xuống nước trước, tao ôm một cây bơi sau, đẩy mầy qua sông. Rán ôm thật chặt, thả tay là chìm, là chết đó. Trời này lạnh tao không lặn xuống cứu mày được mô!

Đúng là hôm đó trời mù sương và lạnh buốt. Thời tiết ấy kéo dài cả tháng Tết tại Huế. Có vẻ như Ông Trời bày tỏ niềm sầu khổ xót thương bao nạn nhân vô tội ở đất Thần Kinh này. Vừa bơi tôi vừa miên man nghĩ tới các bạn tôi. Máu của họ có xuôi theo triền dốc, hòa vào giòng nước sông Tả trạch này chăng? Oan hồn họ giờ đây lảng vảng nơi nào? Có ai còn sống không nhỉ?

Chúng tôi cập gần bến đò Lương Miêu. Từ đây, xuôi dòng sẽ về trụ sở quận Nam Hòa, hy vọng gặp binh lính quốc gia, nhưng cũng có nguy cơ gặp bọn VC chặn đường bắt lại. Thành thử chúng tôi nhắm hướng bắc, tìm đường về Phú Bài. Thằng bạn tôi, do suốt đêm bị gai góc trầy xước, đề nghị đi trên đường quang cho thoải mái. Tôi gạt ngay:

- Ban đêm thì được, chớ ban ngày thì nguy lắm. Chịu khó lần theo đường mòn!

Chúng tôi thấy máu và bông băng rơi vãi nhiều nơi, chứng tỏ có trận đánh gần đâu đó. Đang đi, tôi đột nhiên hỏi thằng bạn:

- Chừ gặp dân thì mày trả lời ra răng, nói tao nghe.

- Nhờ anh chứ tôi thì chịu!

Lúc khoảng 9g, chúng tôi gặp 3 thằng bé chăn trâu. Tôi lên tiếng nói:

- Hai anh là học sinh ở đường Trần Hưng Đạo dưới phố (con đường chính của khu buôn bán, không nói là Phủ Cam). Cách mạng (không gọi là Việt cộng) số về đánh dưới, số còn trên ni. Hai anh vừa mang gạo lên chiến khu hôm qua cho họ. Nay họ cho hai anh về, nhưng ướt cả áo quần lại đói nữa. Mấy em biết Cách mạng có ở gần đây không, chỉ cho hai anh, để hai anh kiếm chút cơm ăn, kẻo đói lạnh quá!

- Hai anh qua khỏi đường này thì sẽ thấy mấy ông Cách mạng đang hạ trâu ăn mừng!

Thế là chúng tôi hoảng hốt tuôn vào rừng lại. Chạy và chạy, chạy tốc lực, chạy như điên, không dừng lại để nghỉ. Một đỗi xa, chúng tôi mới hướng ra lại đồng bằng. Bỗng một đồn lính xuất hiện đằng xa, đến gần thấy bên trong lố nhố mũ sắt. Phe ta rồi! Lần này thì vô đây chứ không đi mô nữa cả. Nhất định vô! Lúc đó khoảng 10 giờ trưa. Đây là đồn biên phòng của một đơn vị quân lực VN Cộng Hòa. Chúng tôi nghe từ trong đồn có tiếng dõng dạc vang vọng:

- Hai thằng VC muốn về hồi chánh hả? Vào đi! Nhớ để tay lên đầu. Thả tay xuống là bắn đó!

Chúng tôi nhất nhất tuân theo. Vào được bên trong, hoàn hồn, chúng tôi mới nói:

- Hai đứa em là học sinh ở dưới Phủ Cam, Phước Quả, bị VC bắt lên rừng từ tối hôm qua với mấy trăm người khác. Nghe tụi nó định giết hết, hai đứa em đã liều mở dây trói, đánh thằng VC rồi bỏ chạy. Còn mấy người kia chắc là chết hết cả rồi! Giờ tụi em chỉ có một nguyện vọng : xin đồn phát súng cho bọn em đánh giặc với, chớ không thể đi ra khỏi đồn nữa.

Viên sĩ quan chỉ huy cất tiếng:

- Tổ quốc đang lâm nguy! Đứa con nào trung, đứa con nào hiếu lúc này là biết liền. Thôi, mấy em thay áo quần, xức thuốc xức men, ăn uống thoải mái rồi ở lại với mấy anh. Tội nghiệp!!!

Họ hỏi chúng tôi về chỗ xảy ra cuộc hành hình nhưng chúng tôi hoàn toàn không thể trả lời được. Giữa rừng rậm lại đêm khuya, biết đâu mà lần. Gần nửa tháng sau tôi mới gặp lại gia đình họ hàng, bằng hữu thuộc giáo xứ Phủ Cam đang chạy về lánh nạn tại Phú Lương và Phú Bài. Hai chúng tôi quyết định bỏ học để đăng lính. Phải cầm súng bảo vệ tổ quốc thôi. Phải báo thù cho anh em bạn bè bị VC giết quá ư dã man, tàn ác, vô nhân đạo. Tôi nhập bộ binh. Thằng bạn tôi đi nhảy dù. Nhưng vài năm sau, tôi nghe tin nó chết trận! Tội nghiệp thật, nhưng đó là cái chết ý nghĩa!

Đến gần tháng mười năm 1969, nhờ bắt được và khai thác mấy tù binh VC, chính phủ VNCH mới biết địa điểm tội ác chính là Khe Đá Mài, nằm trong rừng Đình Môn Kim Ngọc thuộc quận Nam Hòa (nay là xã Dương Hòa, quận Hương Thủy). Nơi đây không thể vào được bằng xe vì đường đi không có hoặc không thể đi lọt, mà chỉ vào được bằng lội bộ. Cây cối chỗ này rất cao, lá dày và mọc theo kiểu hai tầng, tầng thấp gồm những bụi tre và cây nhỏ, tầng cao gồm những cây cổ thụ, với những nhánh lớn xoè ra như lọng dù che khuất đi những gì bên dưới. Bên dưới hai tầng lá này, ánh sánh mặt trời không chiếu sáng nổi. Đúng là nơi có thể giết người mà không cần phải chôn cất. Công binh đã phải bỏ hai ngày, dùng mìn phá ngã các cây cổ thụ để tạo ra một khoảng trống lớn đủ cho máy bay trực thăng đáp xuống, và tiểu đoàn 101 Nhảy Dù Quân lực VNCH đã phụ trách việc bốc các di hài nạn nhân. Các binh sĩ đã tìm thấy cuối một khe nước chảy trong veo (về sau mang thêm tên Suối Máu, Phủ Cam Tử lộ), cả một núi hài cốt, nào sọ, nào xương sườn, nào xương tay xương chân trắng hếu, nằm rời rạc, nhưng cũng có những bộ còn khá nguyên. Xen vào đó là dây điện thoại và dây thép gai vốn đã trói chúng tôi thành chùm. Rồi áo quần (vải có, da có, len có) nguyên chiếc hay từng mảnh, lỗ chỗ vết thủng. Rồi tràng chuỗi, tượng ảnh, chứng minh thư, ống hít mũi, lọ dầu nóng… vương vãi trên bờ, giữa cỏ, dưới nước. Nhờ những di vật này mà một số nạn nhân sẽ được nhận diện. Khi tất cả hài cốt, di vật được chở về trường tiểu học Nam Hòa (nay gọi là Thủy Bằng) bên hữu ngạn sông Hương, đem phân loại, thân nhân đã ùa đến và không ai cầm nổi nước mắt. Tất cả òa khóc, nghẹn ngào. Có người cầu nguyện, có người nguyền rủa, có người lăn ra ngất xỉu khi khám phá vật dụng của người thân. Cái chủ nghĩa nào, cái chế độ nào, cái chính đảng nào đã chủ trương dã man như thế? đã tạo ra những con người giết đồng bào ruột thịt cách tàn nhẫn như thế?

Cuối cùng, đa phần các hài cốt (hơn 400 bộ) được quy tập một chỗ, mang tên nghĩa trang Ba Tầng, nằm phía Nam thành phố Huế, khá cận kề khu vực Từ Đàm (đất của Phật giáo) và Phủ Cam (đất của Công giáo). Nghĩa trang xây thành hình bán nguyệt. Hai bên, phía trước, có hai bàn thờ che mái, cho tín đồ Phật giáo và Công giáo đến cầu nguyện. Ở giữa, phía sau, một trụ đá dựng đứng với giòng chữ Hán làm bia tưởng niệm. Từ đó, tại giáo xứ Phủ Cam của tôi, hàng năm, ngày mồng 10 Tết được coi là ngày cầu nguyện tưởng nhớ các nạn nhân Mậu Thân. Chúng tôi có thể tha thứ cho người Cộng sản nhưng chúng tôi không bao giờ quên được tội ác của họ, y như một câu ngạn ngữ tiếng Anh: “Forgive yes! Forget no!”

Tiếc thay, sau khi vừa chiếm được miền Nam , Cộng sản đã dùng mìn phá ngay trụ bia và hai bàn thờ. Lại thêm một phát súng vào hương hồn các nạn nhân mà nỗi oan vẫn chưa được giải. Đến bao giờ họ mới được siêu thoát đây? Cũng phải nói thêm một điều đáng tiếc nữa là trong Đại hội thường niên từ 8 đến 12-10-2007 năm nay tại Hà Nội, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã hoàn toàn im lặng trước đề nghị Giáo hội Công giáo VN hãy tưởng niệm 40 biến cố này, theo như Thỉnh nguyện thư mà cha Giải, cha Lợi cùng nhiều linh mục và giáo dân khác đã viết hôm 29-09-2007.

Kể lại cho hai cha Nguyễn Hữu Giải và Phan Văn Lợi trong tháng kính các đẳng linh hồn, 11-2007

Đọc bài "The Massacre at Hue", Time 10/1969
http://www.vlink. com/mauthan/ index.php? subaction= showfull&id=1192500224&archive=&start_from=&ucat=&

 

Tuong Niem 40 Nam Mau Than


 

Tang gia Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi xin chân thành tri ân

Được sống trong vô vàn tình thương mến

Được hưởng không biết bao nhiêu lời cầu nguyện

Tang gia Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Huế, VN,

xin chân thành tri ân

Quý vị đã đến viếng thăm, phúng điếu tại tang gia

nhân tang lễ Thân phụ ngày 27 đến 30-01-2008

Đức Tổng Giám mục Têphanô Nguyễn Như Thể,

Đức Giám mục Phụ tá Phanxicô Lê Văn Hồng, Tổng Giáo phận Huế

Quý Linh mục linh tông, Linh mục Huynh đoàn Thánh Tâm,

một số Linh mục thân hữu Tổng Giáo phận Huế,

Linh mục Bề Trên dòng Thánh Tâm, Huế

Quý Mục sư Nguyễn Hồng Quang, Nguyễn Công Chính, Võ Quốc Khánh cùng phái đoàn.

Quý Nữ tu Bề trên dòng Mến Thánh Giá và dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm Huế.

Đại diện các dòng Thiên An, La San, Đức Bà Đi Viếng, Phaolô thành Chartres

tại Thừa Thiên - Huế.

Đại diện Cựu chủng sinh Hoan Thiện trong và ngoài nước.

Một số nhà Dân chủ Bắc Nam và vô số Thân nhân Bằng hữu xa gần trong nước.

Tang gia cũng xin chân thành tri ân

Quý thân hữu của Linh mục PVL từ khắp thế giới

đã gởi điện thư, điện hoa, phúng điếu, chia buồn :

(xếp theo thứ tự thời gian nhận điện thư từ 27-01 đến 06-02-2007)

Quý Hòa Thượng Thích Thiện Hạnh và Thích Không Tánh (Giáo hội Phật giáo VNTN). Ban Phát thanh Tự do Dân chủ Yểm trợ Khối 8406 (Quý Ông Quốc Việt, Trường Giang, Nam Nguyên, Hà Chi, Việt Sĩ, Trần Việt Yên). Luật sư Hoàng Duy Hùng. Ký giả Nguyễn Minh Cần. Gia đình Quý ÔB. Đức Nguyên, Thanh Bằng, Xuân Lee, Kim Trần, Hương Trần. Nhóm Văn thơ Lạc Việt (Ông Chinh Nguyên TM). Ông Nguyễn Dũng. Chiến sĩ Võ Đại Tôn (TM Liên minh Quang Phục VN). Ban Đại diện Cộng đồng Việt Nam, các Hội đoàn, Đoàn thể Quốc gia Bắc California và Tuần báo Tiếng Dân. Gia đình Cô Nguyễn Thanh Hà. Ông Matthew Trần. Tiến sĩ Lê Minh Nguyên và Bà Lê Phương Thy. Ông Đỗ Anh Tài. Ông Nguyễn An Tri (TM gia đình Lm Nguyễn Văn Lý). ÔB Võ Văn Đức+Phan Thiên Ân. Nhóm Chiến sĩ Hòa Bình. Kỹ sư Nguyễn Đình Sài. Nữ luật sư Bùi Kim Thành. Ông Bùi Xuân Quang. Giáo sư Đỗ Mạnh Tri. Ông Nguyễn An Quý (TM Ủy ban YTDC/Washington). Bà Đỗ Thị Thuần. Ông Nguyễn Trung Châu (TM Tổng Hội Cựu TNCTVN). Quý Ông Nguyễn Xuân Tùng, Trần Tấn Toan (TM Diễn Đàn Kitô-hữu), Ông Nguyễn Minh Tuấn (TM Tạp chí điện tử Viet-No). Lm Nguyễn Văn Bính. Lm Phan Xuân Thanh. Hoàng thân Kiến Hòa Nguyễn Phúc Bửu Chánh+Công nương Phan Liên (TM Đại hội đồng Hoàng tộc VN) và Cụ trưởng Phan tộc Bình Dương. Ông Phan Văn Khải, Anh em và các con (TM Tộc Phan Phú Áng tại miền Nam và hải ngoại). Ls Đoàn Thanh Liêm. Gs Ngô Văn Tuấn (TM Diễn đàn Elite và Tổ chức Quốc tế Phát triển VN). Gđ Ông Lê Văn Yên. Ông Võ Đình Chương. Nhà văn Bảo Giang. Thi sĩ Cao Trí Dũng. Lm Phan Miên. Gs Nguyễn Bá Long (TM Diễn đàn Quốc tế Các Phong trào Dân chủ VN và Phong Trào Hiến Chương 2000). Gs Trần Gia Phụng. Gđ Quý Ông Nguyễn Học Tập, Nguyễn Hữu Dõng, Đào Văn Bất, Vũ Duy Minh, Trần Quang Dũng, Nguyễn Quang Minh, Nguyễn Tín, Nguyễn Văn Rĩnh, Lý Thanh Trực. Ông Đỗ Như Điện (TM Phong trào Giáo dân VNHN). Ông Nguyễn Công Bằng (TM Đảng Vì Dân). Gs Chu Chi Nam, Chu Vũ Ánh. Lm Trần Khôi. Bà Ngô Thị Hiền (TM Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Cho Việt Nam -CRFV). Nhà văn Du Lam. Nhà báo Nguyễn Khắc Toàn (TM Tập san Tự do Dân chủ). Ông Nguyễn Văn Lợi (TM Ủy Ban Jacksonville Yểm Trợ Đấu Tranh và Nhóm Hỗ trợ). Bs Nguyễn Quốc Quân (TM Tổ chức Quốc tế Yểm trợ CTNB). Ông Nguyễn Trường Hưng và gđ. Ký giả Vương Kỳ Sơn (TM Đài VN Tự do). Bà Kiều Mỹ Duyên. Ông Đinh Kim Tân (TM Hệ thống Truyền thanh VNHN Âu Châu). Ông Nguyễn Vũ (TM Đài Chân Trời Mới). Thầy Nguyễn Vũ Việt. Lm Nguyên Thanh. ÔB Trần Việt Hải, Tạ Xuân Thạc, Phan Ðình Minh (TM Ðài Sàigon Dallas). Ông Nguyễn Đình Khương (TM Hội Cựu Tù nhân chính trị VNHN). Gđ Bs Nguyễn Tiến Cảnh. Gđ nhà văn Hà Tiến Nhất. Ông Phan Quang Nghiệp (TM Nhóm 1606). Ông Lê Hoàng Hà (TM đài Tiếng Nước Tôi). Ông Trần Hùng (TM UB Sacramento Yểm trợ Đấu tranh). Gđ nhà văn Kiêm Ái. Quý nhạc sĩ Lê Xuân Điềm và Lê Thanh Tùng. Ông Trần Hùng. Ông Lý Trung Tín (TM Tạp chí Dân Văn), Ông Nguyễn Văn Tộ (TM Hội Tình Thương Đức Quốc). Ông Tiếu Vi Lâm (TM Nhóm Yểm trợ bns TDNL). Thi sĩ Ngô Minh Hng. Ông Bùi Hùng Việt. Ông Nguyễn Ngọc Hùng (TM Đảng Thăng Tiến Việt Nam). Ủy Ban Canada Tự do Tôn giáo cho Việt Nam (Quý Ông Mặc Giao, Nguyễn Ngọc Bích, Phan Khánh Phương, Bs Trương Hữu Độ, Bs Trương Lâm Liễu Kim, Nguyễn Xuân Thạch, Chim A Chưởng, Phan Thu). Quý Ông Nguyễn Ngọc, Nguyễn Lê Nhân Quyền (TM Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ), Nguyên Hoàng Bảo Việt (Trung Tâm Nhà Văn Việt Nam Lưu Vong). ÔB Rambo Phạm. Hiền tài Nguyễn Thanh Liêm (TM Ban bảo vệ Tín ngưỡng Cao đài). ÔB Lý Thái Hùng & Trần Diệu Chân. Ông Nguyễn Tiến Ích. Bs Vũ Linh Huy và gđ. Phong trào Vận động Dân chủ VN (Quý Gs Nguyễn Xuân Vinh và Nguyễn Văn Canh, Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện, Quý ÔB Huỳnh Lương Thiện, Hà Thượng Nhân, Trường Giang, Nguyễn Ngọc Tiên, Phạm Hữu Sơn, Đỗ Doãn Quế, Việt Sĩ, Trần Việt Yên, Đức Nguyên, Nguyễn Nam, Bích Ngọc, Lê Phương, Nguyễn Huy, Trường Kỳ, Hồng Nguyên, Nguyễn Trước, Quốc Việt). Anh hùng Lý Tống và Gđ Ông Lê Ngoạn. ÔB Đỗ Thành Công. Nhạc sĩ Phan Văn Hưng và Văn sĩ Nam Dao. Bs Trần Văn Cảo (TM Nguyệt san Diễn đàn Giáo dân). Gs Lưu Trung Khảo. Ông Nguyễn Văn Thông (TM Hội CNVN/GV Canada). Ls Nguyễn Hữu Thống và gđ. Hoa Pensée (TM Diễn đàn Tiếng nói Tự do Dân chủ cho VN). Khối 8406 (Ks Đỗ Nam Hải, Gs Nguyễn Chính Kết, Csq Trần Anh Kim, Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa). Liên minh Dân chủ Nhân quyền VN. Ông Trường Giang UK (TM Khối 101206 và Diễn đàn Tiếng nói Tự do của Người Dân Việt Nam). Gs Nguyễn Thanh Trang (TM Mạng lưới Nhân quyền VN). Bs Trần Văn Cảo, Nv Pham Tất Hanh, Nv Trần Phong Vũ (TM Nguyệt san Diễn Đàn Giáo Dân). Gs Võ Văn Ái (TM Cơ sở Quê Mẹ và Phòng TTPGQT). Anh Nguyễn Văn Mười. Quý Ông Nguyễn Úy, Lê Hồng Phong, Nguyễn An, Nguyễn Hùng Dũng. Hoàng Văn Thượng, Lê Văn Hùng. Trương Văn Minh. Lê Văn Hiếu. Lê Văn Tình. Nguyễn Duy Sinh. Nguyễn Ngọc Hải (TM Cựu chủng sinh Huế trong và ngoài nước). Ông Hồng Quân (TM Khối 1906). Ông Võ Minh Cương và gđ. Anh Hoàng Văn Thọ. Lm Nguyễn Ngọc Sơn. Thượng Tọa Thích Thiện Minh (TM Hội Ái hữu Tù nhân CTTG VN). Ông Phạm Hoài Việt. Bà Trần Thị Lệ. Ô/B Trucie Dương. Lm Đinh Xuân Minh. Lm Nguyễn Hữu Lễ (TM Phong trào Sài Gòn). Gia đình Cựu Tù nhân Chính trị Bình Điền. Ông Cao Hữu Thiên (TM Cựu TNCT WA). Ông Trần Đan Tâm. ÔB Nguyễn Đức Ban. ÔB Nguyễn Dương+Ngọc Yến. Cô Trần thị Hội (TM Nhóm Yểm trợ Oregon). Thi sĩ Bút Trẻ. Quý Ông Tôn Thất Sơn và Trần Nam Bình (TM Diễn đàn Nước Việt). Ls Trần Thanh Hiệp (TM Trung tâm Việt Nam về Nhân quyền). Ông Trần Kim Ẻm (TM UB Yểm trợ Brisbane). Ông Đoàn Kim (TM Vietnam Sydney Radio). Quý Ông Huỳnh Ngọc Tuấn Trần Nam Phương. Ông Huỳnh Đức (TM Nhóm YTDC Nam Úc). Lm Trần Xuân Tâm. Ông Lê Hoàng và Thân hữu. Bs Nguyễn Ngọc Sơn và gđ. Cô Đoàn Thị Thanh Thúy. Ông Phan Thanh (TM Thông tấn VNN). Quý Ông Trần Ngọc Bính & Nguyễn Công (TM Phong Trào Yển Trợ Khối 8406 Vancouver). Nhà văn Chu Tất Tiến. Lm Trần Đình Nha. Nhóm Văn Dũng Lạc (Lm Trần Cao Tường), Văn đàn Đồng Tâm (Gs Doãn Quốc Sỹ), Nguyễn Xuân Vinh Foundation (Gs Nguyễn Xuân Vinh), Lê Văn Duyệt Foundation (Gs Nguyễn Thanh Liêm). Ông Bùi Trung Trực và gđ. Nhà thơ Bảo Thắng. Lm Lê Đình Du. Đảng Dân Tộc Việt Nam. Khối 1906 Yểm Trợ TDDCNQ cho VN. Bà Bs Nguyễn Quý Thể. Lm Nguyễn Văn Nghĩa. Bà Dương Thị Xuân. Lm Trần Khôi. Lm Phan Sa. Nhóm Lương Tâm Công Giáo. Gs Đinh Thiên Vũ. Ông Nguyễn Văn Tân (Hội Cựu Quân nhân Quân lực VNCH). Cô Phạm Thanh Nghiên. Cô Diễm Hương. Bà Thanh Vân....

Trong lúc tang gia bối rối, có điều gì sơ sót, xin Quý vị niệm tình tha thứ.

This page is powered by Blogger. Isn't yours?

Tin Việt Nam

(freevietnews.com)