Tuesday, December 15, 2009

 

Linh mục Nguyễn Văn Lý: Tù nhân và bệnh nhân bất khuất


Bản tin ngày 15-12-2009



Linh mục Nguyễn Văn Lý

Tù nhân và bệnh nhân bất khuất


Như mọi người đã biết, hôm 15-11-2009, Linh mục Tù nhân Lương tâm Nguyễn Văn Lý đã được đưa từ nhà tù Ba Sao, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, ra bệnh viện của Bộ Công An, tại phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy, Hà Nội, sau khi bị tai biến mạch máu não và bại liệt nửa người.



Trong thời gian điều trị ở đây, ngoài sự chăm sóc của bác sĩ và y tá của bệnh viện theo chế độ tù nhân (ở trong phòng cách ly có chấn song, có 5 công an canh gác đêm ngày, thuốc men hạng xoàng xĩnh), Linh mục Lý đã được thân nhân thay phiên nhau đến thăm nom, được hai vị Giám mục ở Huế đến thăm viếng, được một số linh mục, tu sĩ, giáo dân ở Hà Nội đến thăm vọng (đứng ngoài sân nhìn vào), được nhiều cá nhân và cộng đồng hải ngoại (như Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam, các Khối 8406, 1706, 1906…), chính khách ngoại quốc (như 6 dân biểu Hoa Kỳ…) và tổ chức nhân quyền (như Ân xá Quốc tế, Phóng viên Không biên giới, Tự do Tức thì… ) thăm hỏi, mở chiến dịch vận động, yêu cầu Liên Hiệp Quốc can thiệp giùm và lên tiếng đòi hỏi nhà cầm quyền Hà Nội trả tự do.


Dù thể xác lâm bệnh nặng, tinh thần của Linh mục Lý vẫn sáng suốt và chí khí vẫn bất khuất. Linh mục đã nhiều lần phản đối bệnh viện lẫn y bác sĩ vì coi ông như một tên tội phạm: một lần yêu cầu xóa chữ này (“phạm nhân Lý”) trên toa thuốc đem tới, một lần yêu cầu xóa chữ này trên bảng thông báo điều trị của bệnh viện, một lần từ chối dùng thuốc trước thái độ hách dịch của cô y tá, một lần từ chối dùng thức ăn khi thấy nhân viên công an gây khó dễ cho thân nhân mình.


Đặc biệt, mỗi khi y tá bác sĩ đem thuốc tới cho linh mục dùng, ông đều buộc họ ký tên vào toa. Ban đầu họ tỏ vẻ khó chịu, linh mục Lý liền giải thích: “Tôi yêu cầu quý vị làm thế là để bảo vệ cho quý vị, vì chính một bề trên của tôi, Đức Cố Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, đã bị bác sĩ và y tá của Cộng sản giết chết bằng thuốc độc tại bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn ngày 6-6-1988”.


Khoảng ngày 25-11-2009, đang khi có một người cháu là Nguyễn Văn Hải chăm sóc bên cạnh, Linh mục Lý vẫn nhờ nhắn chị ruột là bà Nguyễn Thị Hiểu và người cháu làm nghề đông y sĩ là anh Nguyễn Công Hoàng ra lại gấp (hai người này trước đó đã đến bệnh viện thăm Linh mục một lần). Linh mục cho biết là nhà cầm quyền muốn gia đình làm “đơn cầu xin” và Tòa Giám mục Huế làm “đơn bảo lãnh” cho linh mục ra khỏi tù, về lại Huế để chữa bệnh. Toán công an (từ trại Ba Sao) đi theo canh giữ Linh mục thậm chí còn tự đề nghị chỉ dẫn cách cho mà làm đơn. Việc này xảy ra trong bối cảnh chủ tịch nước CSVN là Nguyễn Minh Triết sắp đến Vatican gặp Đức Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô vào ngày 11-12-2009.


Thế nhưng, cha Lý và anh Hoàng đã bàn bạc riêng với nhau, và dưới đây là bức thư của gia đình viết ngày 29-11-2009, trong đó chỉ đề nghị chứ không xin xỏ nhà cầm quyền, và càng không tỏ ra dấu “nhận tội” để được CS “khoan hồng”, “ban ân huệ”. (Xin xem thủ bút trong attachment)


Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc


Bệnh viện 19.8, ngày 29-11-2009


GIẤY ĐỀ NGHỊ


Kính gởi:

- Ông Bộ trưởng Bộ Công an, Hà Nội.

- Ban Giám thị trại giam Nam Hà, Hà Nam.


Kính thưa quý vị,


Từ ngày 25-5-2009 đến ngày 14-11-2009, Linh mục Nguyễn Văn Lý, là thân nhân gia tộc của chúng tôi, đã bị xuất huyết não 3 lần, mỗi lúc mỗi nặng hơn. Hiện nay Linh mục Nguyễn Văn Lý đã bị liệt nặng nửa người bên phải. Mặc dù đã được quý y, bác sĩ tại bệnh viện tận tình điều trị chu đáo, nhưng theo các bác sĩ chuyên môn tiên liệu, bệnh trạng này sẽ kéo dài, không thể hồi phục nhanh, hơn nữa thường là rất dễ sớm bị tai biến lại. Cũng qua các kết quả của cận lâm sàng, các bác sĩ đã phát hiện có một khối u ở phần chẩm sau não.


Nay gia tộc chúng tôi đề nghị quý vị tạo điều kiện để Linh mục Nguyễn Văn Lý sớm được đưa về tiếp tục điều trị tại Nhà Chung của Tòa Tổng Giám mục Huế, số 69 Phan Đình Phùng, Huế. (Vì theo giáo luật, Linh mục Nguyễn Văn Lý đang thuộc quyền của Tòa Tổng Giám mục Huế).


Và từ đó, gia tộc chúng tôi mới có thể đề nghị Tòa Tổng Giám mục Huế cho phép gia tộc chúng tôi đưa Linh mục Nguyễn Văn Lý đến điều trị tại một bệnh viện có đủ những điều kiện thích hợp và thuận tiện hơn, ở miền Nam Việt Nam.


Toàn gia tộc chúng tôi xin chân thành cảm ơn quý vị.


Đại diện gia tộc họ Nguyễn

(ký tên)

Nguyễn Công Hoàng

Đ/c: 1049 ấp Quảng Biên, Quảng Tiến, Trảng Bom, Đồng Nai.

CMND số : 272118752.

Cấp ngày 31-7-2007, tại Đồng Nai


Bức thư này dĩ nhiên chẳng làm Cộng sản ưng ý. Một viên chức của nhà cầm quyền cho biết họ không chấp nhận lời đề nghị, vì gia đình chẳng chịu ghi rõ sẽ thỏa mãn những điều kiện mà họ đã đặt ra cho Lm Lý khi chấp nhận cho ông rời khỏi nhà tù để ra ngoài chữa bệnh. Sau khi nó được viết xong, bà Hiểu đã lập tức mang bản sao vào cho Đức Tổng giám mục Nguyễn Như Thể và Đức Giám mục phụ tá Lê Văn Hồng tại Huế để hai vị biết lập trường của gia đình. Vì thế, người ta không thấy có việc bảo lãnh của Tòa TGM Huế. Việc bảo lãnh -nếu có- hàm ý công nhận linh mục Lý có tội, CS bỏ tù ông là đúng và nay mong nhà cầm quyền bày tỏ lòng khoan hồng với một “tội nhân” lâm bệnh.


Tiếp tục chờ đợi, cha Lý và thân nhân thấy nhà cầm quyền không tỏ thái độ thiện chí và nhân đạo, trái lại vẫn quyết dùng việc “điều trị ngoài nhà tù” như một biện pháp áp lực lên tinh thần của ông, đồng thời chẳng hy vọng điều gì tốt đẹp cho mình nhân cuộc viếng thăm Vatican của chủ tịch VNCS Nguyễn Minh Triết, nên cha Lý và anh Hoàng đã viết sẵn một lá thư (đề ngày 13-12-2009) để bày tỏ lập trường, đó là khước từ sự điều trị “có điều kiện” của Cộng sản. (Xin xem thủ bút trong attachment).


Bệnh viện 19.8, ngày 13 tháng 12 năm 2009


THƯ CẢM ƠN VÀ KHƯỚC TỪ ĐIỀU TRỊ


Kính gởi:

- Bộ Công an, Hà Nội.

- Ban Giám thị trại giam Nam Hà, Hà Nam.


Kính thưa quý vị,


Sau khi tôi bị tai biến mạch máu não lần thứ 2 ngày 12-7-2009, tôi được biết, sau đó ít lâu, khoảng từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 9-2009, các đại diện của gia tộc tôi đã kính gởi một thư đến Ông Chủ tịch Nước và Ông Thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, đề nghị Nhà nước Việt Nam sớm giải quyết êm đẹp vụ việc của tôi.


Sau khi tôi bị tai biến mạch máu não lần thứ 3 ngày 14-11-2009, tôi lại được biết các vị có thẩm quyền của Bộ Công an đã yêu cầu gia tộc tôi nhanh chóng viết thêm một thư đề nghị gởi đến quý vị ngày 29-11-2009, mong sớm đưa tôi về Nhà Hưu dưỡng Tòa Tổng Giám mục Huế, số 69 Phan Đình Phùng, Huế. Rồi từ đó, gia tộc tôi mới có thể xin phép Tòa Tổng Giám mục Huế đưa tôi đến một bệnh viện thích hợp để điều trị những bệnh chứng tôi đang mắc phải: rối loạn huyết áp, di chứng tai biến mạch máu não gây liệt nửa người bên phải, khối u phía sau chẩm não trái, xơ vữa 2 động mạch cảnh ở cổ tạo nên những đám tụ huyết nhỏ, gây ra các cơn ho đột biến khác thường.


Dù gia tộc tôi đã bức thiết đề nghị rất chính đáng, nhưng quí vị đã thiếu thiện chí đáp ứng. Từ hôm nay, tôi khước từ mọi điều trị của quý vị.


Tôi xin chân thành cảm ơn quý vị.


Đồng thời tôi cũng xin cảm ơn quý bác sĩ, cán bộ điều dưỡng và y tá của trại giam Nam Hà, Hà Nam và của bệnh viện 19.8 Bộ Công an Hà Nội, đã tận tình điều trị và chăm sóc tôi từ ngày tôi bị tai biến mạch máu não lần thứ 1, 25-5-2009, cho đến nay.


Nguyện xin Thiên Chúa luôn chúc lành cho thiện tâm phục vụ của quý vị.


Kính chúc quý vị một Đại lễ Thiên Chúa Giáng Sinh và một Năm Mới đầy an lành - ân phúc.


Trân trọng kính chào tất cả quý vị.


TNLT Lm NLL (thay thế chữ ký)

Tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Lý

Linh mục Công giáo Tổng Giáo phận Huế.


Vì Linh mục Lý bị liệt tay phải, bức thư này phần lớn được viết bởi anh Nguyễn Công Hoàng. Cha Lý chỉ dùng tay trái để viết được 2 câu: “Dù gia tộc tôi đã bức thiết đề nghị rất chính đáng, nhưng quý vị đã thiếu thiện chí đáp ứng. Từ hôm nay, tôi khước từ sự điều trị của quý vị”, và “Tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Lý, Linh mục Công giáo Tổng giáo phận Huế”.


Nay thì vị Linh mục bất khuất đã bị đưa trở lại trại giam Ba Sao vào lúc 17g ngày 11-12-2009, đúng thời điểm Nguyễn Minh Triết gặp Đức giáo hoàng tại Rôma, gọi là để tỏ thiện chí với Giáo hội Công giáo hầu thiết lập bang giao giữa Việt Nam-Vatican. Sau khi tiễn chú đến cổng trại giam, anh Nguyễn Văn Hải chỉ còn biết khóc từ biệt, nhìn theo người thân yêu quý đang phải chập chững lê từng bước với sự trợ giúp bắt buộc của cai tù. Sau đó anh ra thị xã Phủ Lý đón xe vào lại Quảng Biên, Đồng Nai.


Xin được nhắc lại: Linh mục Lý vẫn còn bị liệt nửa người, và mỗi lần chỉ có thể đi vài bước ngắn với chiếc nạng 4 chân. Sau cơn tai biến mạch máu não lần thứ hai hôm 14 tháng 11 cho đến hôm 11 tháng 12, ông khó có thể dùng cơm cháo một mình vì cánh tay phải không thể tự điều khiển. Tất cả các bữa ăn đều nhờ thân nhân ngồi cạnh phục vụ bằng cách đút vào miệng. Ông cũng không thể tự chống gậy để đến phòng vệ sinh ngay trong bệnh viện công an. Mọi hoạt động căn bản đều phải tùy thuộc sự giúp đỡ của các người cháu.


Từ tuần trước, tình trạng sức khoẻ của Linh mục Lý trở nên tồi tệ hẳn. Ông thỉnh thoảng lên cơn sốt nóng, rồi sau đó đột ngột cảm lạnh. Ông cố gắng tập luyện thân thể, nhưng những phút luyện tập này càng ngày càng ngắn đi vì những cơn sốt kéo đến thường xuyên hơn. Trí nhớ của ông cũng bị giảm thiểu nhiều.


Nay với cảnh cô đơn trong phòng biệt giam tại Ba Sao, người ta không biết tình trạng sức khỏe của vị linh mục sẽ tồi tệ đến mức nào nữa, nhất là khi ông quyết định từ khước sự điều trị của Cộng sản. Thời gian còn thụ án của của ông là 5 năm nữa. Gia đình đã điện thoại cho trại giam, bảo rằng trại phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự an nguy của cha Lý.


Xin Đồng bào tiếp tục cầu nguyện cho vị tù nhân lương tâm bất khuất được hồi phục sức khỏe thể xác và kiên vững luôn mãi tinh thần, đồng thời chúng ta tiếp tục đấu tranh để CS phải trả tự do cho Linh mục Nguyễn Văn Lý.


Huế ngày 15-12-2009

Nhóm Phóng viên FNA Khối 8406
tường trình từ Huế theo lời kể của thân nhân



Monday, December 14, 2009

 

Kháng thư số 29: Phản đối nhà cầm quyền CSVN thành lập Dân quân Tự vệ biển và tiến hành dự án Điện hạt nhân

KHỐI 8406

Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006

Web: http://khoi8406vn.blogspot.com/

Email: vanphong8406@gmail.com

Kháng thư số 29

Phản đối nhà cầm quyền CSVN thành lập

Dân quân Tự vệ biển và tiến hành dự án Điện hạt nhân


Kính gửi: Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước cùng cộng đồng thế giới dân chủ.

Ngày 23-11-2009, bất chấp những phân tích hơn thiệt và sự phản đối kịch liệt của nhiều nhà trí thức trong lẫn ngoài nước, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật về dân quân tự vệ. Theo luật mới này, người dân cả nam lẫn nữ “phải tham gia dân quân tự vệ, các địa phương phải tổ chức lực lượng dân quân, các cơ quan phải tổ chức tự vệ để đóng góp cho nền quốc phòng toàn dân”. Theo báo chí, dự thảo Luật đã được thông qua với 89% số đại biểu tán thành và sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-7-2010. Áp dụng trên lãnh hải, mỗi đội tàu cá sẽ có một tổ vừa đánh cá, vừa thi hành nhiệm vụ của dân quân tự vệ, được gọi là “Dân quân tự vệ biển”. Lực lượng mới này sẽ được trang bị súng ống và sẽ phối hợp với biên phòng, cảnh sát biển lẫn hải quân để gọi là bảo vệ ngư dân và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.

Hai ngày sau, 25-11-09, mặc dầu đa số thành viên thiếu hiểu biết chuyên môn về nguyên tử học và bất chấp lời cảnh báo của nhiều nhà khoa học lẫn kinh tế học đầy tâm huyết, Quốc hội lại thông qua với 77% phiếu tán đồng một Nghị quyết về điện hạt nhân. Nghị quyết này nêu rõ: sẽ tiến hành Dự án điện hạt nhân tại tỉnh Ninh Thuận, gồm 2 nhà máy tạo ra năng lượng nguyên tử để bổ sung cho lưới điện quốc gia cùng góp phần phát triển kinh tế xã hội cả nước và toàn tỉnh. Nhà máy số 1 đặt tại xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam, nhà máy số 2 đặt tại xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận, với công suất trên 4.000 MW. Nhà máy số 1 sẽ bắt đầu được xây dựng năm 2014, để tổ máy đầu tiên được vận hành vào năm 2020. Dự toán khởi thủy là 12 tỷ mỹ kim.

Trước hai sự kiện gây xôn xao, lo lắng, thậm chí là thất vọng và phẫn nộ cho cộng đồng người Việt trong lẫn ngoài nước, Khối 8406 chúng tôi nhận định như sau:

I- Về Dân quân Tự vệ biển

1- Bảo vệ tính mạng của nhân dân, cũng như khẳng định và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển là nghĩa vụ chính của nhà nước và quân đội, Hiến pháp đã quy định như vậy, chứ không phải là nghĩa vụ chính của ngư dân. Người dân đi biển chủ yếu là để mưu sinh chứ không phải để làm những công việc nguy hiểm này thay cho quân đội và nhà nước. Nay Quốc hội CSVN lại chủ trương trang bị vũ khí cho ngư dân để họ tự bảo vệ trong trường hợp bị nước ngoài, cụ thể là Trung Quốc, tấn công trên biển như trong mấy năm gần đây, điều đó có nghĩa là nhà nước lẫn quân đội trốn tránh nghĩa vụ quan trọng của mình, và lấy ngư dân làm bia đỡ đạn.

2- Thành lập Dân quân Tự vệ nói chung, Dân quân Tự vệ biển nói riêng, đồng thời ép buộc ngư dân phải tham gia vào đó để quân đội có thể bất động, không chu toàn trách nhiệm của mình, là vượt quá điều 77 Hiến pháp: “Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân”. Tinh thần của điều này là thường dân phải phụ lực với quân đội trong thời chiến, chứ không phải thay thế cho quân đội trong thời bình. Ra một điều luật buộc ngư dân phải chung gánh nặng, thậm chí làm bia đỡ đạn cho quân đội như thế chính là nhục mạ quân đội, khiến mọi người có thể nghĩ rằng nhiệm vụ của quân đội chủ yếu là bảo vệ ách cai trị độc quyền của đảng CS hơn là bảo vệ chủ quyền đất nước và tính mạng nhân dân, theo khẩu hiệu “Trung với đảng (trước), hiếu với dân (sau)”!

3- Dân quân Tự vệ không thể là lực lượng tác chiến hữu hiệu trên biển. Cuộc chiến trên biển khác hẳn cuộc chiến trên đất liền. Chỉ các vũ khí tối tân và hạng nặng như phi cơ, chiến hạm, hỏa tiễn mới có khả năng bảo vệ lãnh hải. Giao cho ngư dân nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển trong khi nhà nước và quân đội lại thụ động trước sự tấn công tàn bạo của ngoại bang -như vô số bằng chứng trong mấy năm qua- chính là khiến ngoại bang có cớ tàn sát ngư dân dễ dàng và chính là đẩy thường dân vào chỗ chết thay cho quân đội.

4- Dân quân Tự vệ biển rất dễ trở thành “ngòi nổ” cho chiến tranh xâm lược lãnh thổ Việt Nam. Bởi lẽ là lực lượng vũ trang không chuyên, chẳng được huấn luyện bài bản, thiếu phương tiện và sự chỉ huy thống nhất như lực lượng vũ trang chính quy, họ có thể bắn nhầm thường dân nước ngoài hoặc nổ súng không cần thiết khi bị khiêu khích, và như vậy dễ dàng tạo cớ cho ngoại bang đánh trả hay xâm lược.

II- Về điện hạt nhân

1- Điện cần thiết cho phát triển kinh tế, nhưng việc sản xuất điện mất nhiều tiền bạc và thời gian. Vì thế, việc khảo sát và đề xuất cách sản xuất điện là chuyện quan trọng. Chi phí đầu tư ban đầu cho điện hạt nhân lại rất đắt đỏ, gấp ba bốn lần các loại điện đang được làm ra tại Việt Nam. Thế mà đang khi ngân sách dự trữ quốc gia chỉ có 22 tỷ đôla (lời một đại biểu Quốc hội), thì dự án hạt nhân trong giai đoạn đầu đã ngốn đến 12 tỷ, và có thể tăng lên gấp đôi, gấp ba chỉ sau vài năm. Và rồi 10, 15 năm nữa chưa chắc đã có điện dùng (theo lời các chuyên gia).

2- Kỹ thuật điện hạt nhân lại rất tinh vi, đòi hỏi nhiều thiết bị đắt tiền, nhân sự có trình độ chuyên môn cao, thời gian đào tạo lâu dài; rủi ro về kiện cáo với các công ty ngoại quốc cung cấp 100% thiết bị lại rất lớn. Thế mà ở khởi điểm này, Việt Nam vẫn thiếu chuyên gia, và trong thời gian mười năm tới, lúc tổ máy đầu tiên vận hành, vẫn khó có thể đào tạo đầy đủ nhân sự. Lâm vào kiện cáo với các công ty (như đang thấy hiện nay tại Phần Lan, Hoa Kỳ…) thì buộc phải ra tòa án quốc tế và chi phí kiện tụng lại là một gánh nặng thêm cho ngân sách quốc gia vốn đã eo hẹp.

3- Ngoài ra, nguy cơ về sinh thái (rò rỉ phóng xạ và vương vãi chất thải nguyên tử) không phải là nhỏ. Với thói vô trách nhiệm thâm căn cố đế thường thấy trong các chế độ CS nói chung và tại Việt Nam nói riêng (bao nhiêu dòng sông lớn trong nước đang chết dần vì ô nhiễm do các nhà máy là một trong muôn vàn thí dụ), thì một Tchernobyl thứ hai tại Việt Nam là điều rất có thể xảy ra, một khi các nhà máy ĐHN tại Ninh Thuận đi vào hoạt động. Lúc ấy thì quả là một tai họa khôn lường cho nhân dân và đất nước!

Chính vì thế, Khối 8406 chúng tôi tuyên bố:

1- Tương quan lực lượng và diễn tiến xung đột khu vực Biển Đông hiện thời, cụ thể là với bá quyền Trung Cộng, cho thấy Việt Nam đang ở vào một thời điểm phải đầu tư thích đáng để xây dựng lực lượng hải quân chính quy, hiện đại chứ không phải là lực lượng dân quân tự vệ biển. Thế mà cho tới nay, lực lượng hải quân Việt Nam lại rất mỏng và rất thiếu sức chiến đấu.

2- Muốn tăng cường bảo vệ ngư dân, cách đúng đắn nhất là nhà cầm quyền CSVN nên điều tàu vũ trang của quân đội và cảnh sát biển tới ngay hiện trường; đồng thời phải lên tiếng phản đối hành động của các quốc gia gây hấn trong thời gian nhanh nhất qua con đường ngoại giao chính thức; kiện họ ra Tòa án quốc tế khi có đủ cơ sở pháp lý… Thế mà cho tới nay, ngư dân lâm nguy luôn bị bỏ mặc và phản ứng ngoại giao của Việt Nam là hết sức yếu ớt và chậm chạp. Vì vậy, nó không có tác dụng ngăn chặn tội ác mà ngược lại, khuyến khích cho tội ác liên tục hoành hành.

3- Từ bao năm nay, Nhà cầm quyền Việt Nam một mặt luôn giữ thái độ nể sợ, không dám đương đầu với Trung Cộng trong các vụ xung đột trên Biển Đông, không nhanh nhạy cứu giúp và bênh vực ngư dân bị cấm cản, hành hung, cướp bóc và tàn sát. Mặt khác, nhà cầm quyền lại luôn tìm cách lấp liếm che đậy những nhượng bộ cho lân bang về các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và về vịnh Bắc Bộ, tìm cách bịt miệng, trấn áp, cầm tù những công dân lên tiếng bảo vệ chủ quyền quốc gia trên Biển Đông.

4- Đưa ra luật về dân quân tự vệ, ngoài mục đích dùng ngư dân thế mạng và tránh đương đầu với Trung Quốc trên biển cả, nhà cầm quyền CSVN còn nhắm kiểm soát nhân dân trên đất liền chặt chẽ hơn bằng cách đoàn ngũ hóa họ với kiểu cách và luật lệ quân sự, hầu đề phòng một cuộc nổi dậy của toàn dân nhằm giải thể cái chế độ đầy thối nát, tham nhũng và bất công do đảng CS đang thực hiện và bảo vệ.

5- Bằng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, nhà cầm quyền CSVN -với những nhân vật lãnh đạo vừa mù tịt lãnh vực nguyên tử vừa kiêu căng duy ý chí- đang đẩy đất nước vốn đã nghèo đói và trì trệ, vào một cuộc phiêu lưu nguy hiểm trên lãnh vực kinh tế, tài chánh, pháp lý, môi trường và an ninh, cốt để giành danh tiếng hão “cường quốc điện hạt nhân” hay để tạo thế liên hoàn “hạt nhân Ninh Thuận - bauxite Tây Nguyên” hầu phục vụ cho ý đồ xâm lăng của quan thầy Trung Cộng. Ðang khi chuyện quan trọng hơn bây giờ là làm sao xóa đói giảm nghèo, cứu trợ nạn nhân thiên tai lũ lụt, xây nhà thương cho bệnh nhân, lập trường học cho các thế hệ trẻ… thì họ lại chỉ làm qua quýt cho xong, nhằm hóa giải sự phẫn nộ của nhân dân đang ngày càng dâng tràn và tiếp tục lừa bịp thế giới.

6- Quốc hội nước CHXHCNVN lại một lần nữa chứng tỏ mình là gia nô cho đảng CS thay vì là tiếng nói và công bộc cho nhân dân. Sau sự im lặng tán đồng việc Bộ Công thương lập “Ban Chỉ đạo thực hiện các dự án bauxite Tây Nguyên” hôm 30-10-2009, thì nay cơ quan này đã vội chấp nhận Dự luật Dân quân tự vệ nói chung và Dân quân tự vệ biển nói riêng mà không thấy được âm mưu khống chế nhân dân hơn nữa của đảng CS và không lường được những nguy hiểm chết người cho ngư dân. Ngoài ra, với hiểu biết non kém về kỹ thuật phức tạp của điện hạt nhân, với việc thảo luận và phản biện qua loa chiếu lệ, với thái độ phớt lờ những góp ý xây dựng chân tình của bao nhà trí thức, Quốc hội cũng đã vội vàng tuân lệnh đảng mà thông qua một dự án hết sức quan trọng và tiềm ẩn nhiều nguy cơ lẫn thách thức cho đất nước. Vì quyền lợi của dân tộc, vì tương lai của giống nòi, Khối 8406 chúng tôi cực lực phản đối cả hai Quyết định đầy nguy hiểm này!

7- Cung cách ra quyết định của cái gọi là “Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam” về việc thành lập lực lượng Dân quân tự vệ biển và tiến hành triển khai dự án Điện hạt nhân nói trên vẫn không gì khác hơn là cung cách ra quyết định thường thấy trong bất cứ chế độ độc tài toàn trị nào khắp thế giới. Hoàn toàn làm theo chiếc gậy chỉ huy tối cao của Bộ chính trị đảng CS, họ không xứng đáng là đại diện cho dân tộc Việt Nam! Thực tế của hơn 64 năm qua, kể từ ngày 2-9-1945 cho đến nay, chứng minh rõ ràng rằng mọi thế hệ lãnh đạo trong Đảng CSVN đã luôn vì đặc quyền đặc lợi của tập đoàn mình mà chà đạp một cách lạnh lùng và tàn bạo mọi quyền lợi của quốc gia dân tộc!

8- Con đường duy nhất đúng đắn để dân tộc Việt Nam hôm nay có thể thóat ra khỏi những bất công, đói nghèo, tụt hậu, khỏi nguy cơ mất nước một lần nữa, là phải dũng cảm vượt qua nỗi sợ để cùng đòan kết bước vào một cuộc chiến đấu mới. Đó là chiến đấu giành lấy những giá trị tự do thiêng liêng từ tay chế độ độc tài tòan trị, phản dân tộc và phi dân chủ hiện nay. Mục tiêu của cuộc chiến đấu này là thay thế triệt để chế độ bất lương ấy bằng một chế độ xã hội đa nguyên, với một chính trường đa đảng. Phương pháp để thực hiện mục tiêu đó là hòa bình, bất bạo động! Và sự nghiệp chính nghĩa đó là của tòan dân tộc, chứ không phải của riêng một tổ chức, đảng phái hay cá nhân nào!

Ngày Nhân quyền Quốc tế 10-12-2009

Ban Đại diện Lâm thời Khối 8406:

1. Kỹ sư Đỗ Nam Hải - 441 Nguyễn Kiệm, P. 9, Q. Phú Nhuận, Sài Gòn, Việt Nam.
2. Linh mục Phan Văn Lợi - 16/46 Trần Phú, Thành phố Huế, Việt Nam.
3. Giáo sư Nguyễn Chính Kết - đang vận động dân chủ tại hải ngoại.
Trong sự hiệp thông với Lm Nguyễn Văn Lý, cựu quân nhân Trần Anh Kim, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và nhiều tù nhân chính trị, tôn giáo khác đang ở trong lao tù Cộng sản.


This page is powered by Blogger. Isn't yours?

Tin Việt Nam

(freevietnews.com)