Monday, April 19, 2010

 

Bản tin ngày 18-04-2010: Tường thuật tổng hợp vụ thầy giáo Ngô Văn Tuyên hành hung học sinh đeo tượng Thánh giá

Đấu tranh cho Tự do Tôn giáo tại Huế
Bản tin ngày 18-04-2010
Tường thuật tổng hợp
vụ thầy giáo Ngô Văn Tuyên hành hung học sinh đeo tượng Thánh giá
tại trường trung học cơ sở An Bằng, Vinh An, Phú Vang, Thừa Thiên-Huế

Ngày 12-04-2010, thầy giáo Ngô Văn Tuyên ra bài thi học kỳ 2 về môn Giáo dục Công dân cho các học sinh lớp 75 trường THCS An Bằng vào tiết 2 ban sáng. Lớp gồm 37 học sinh cả lương lẫn giáo. Riêng Công giáo có học sinh thuộc giáo xứ Hà Úc và An Bằng.

Làm bài thi chưa được 10 phút, em Lê Tiến Quốc, 13 tuổi, giáo xứ An Bằng, bị thầy Tuyên gọi lên trước lớp. Thầy bảo em cởi dây và tượng Thánh giá ra khỏi cổ. Em không chấp thuận: “Dạ không! Chúa của em thì em đeo!”. Thầy liền xách tai, tát vào mặt em và nắm lấy tượng Thánh giá nơi cổ em, giựt đứt giây đeo. Đoạn thầy nắm tay em kéo xuống phòng Hội đồng trường để xử lý.

Tại phòng Hội đồng có mặt cô Cúc, thầy Tín, thầy Sang và thầy Hóa. Thầy Tuyên trao tượng Thánh giá và dây đeo cho thầy Hóa. Thầy Hóa trả lại cho em Quốc và nói được phép. Thầy Tuyên phản đối và đưa em qua phòng thầy hiệu phó. Thầy hiệu phó đi vắng. Thầy Tuyên cầm đùi trống chỉ vào mặt em Quốc dọa rồi bảo về lớp và tịch thu cả bài thi. Em Quốc đành ngồi không cho đến hết giờ. Các em trong lớp rất khó chịu, nhất là học sinh Công giáo, trước hành vi của ông thầy dạy môn Công dân Giáo dục!!!

Lúc 13g30 cùng ngày, cha mẹ em Quốc là ông Lê Văn An, bà Phạm Thị Hương cùng người bà con là ông Lê Văn Duyệt vào trường gặp thầy Tuyên tại phòng Hội đồng trường. Khoảng 8 thầy cô hiện diện tại phòng.

Cha mẹ em Quốc xin thầy Tuyên xác nhận vụ việc thực hư ra sao để thấy sự thật khách quan. Thầy Tuyên nói chỉ tát nhẹ vào má em Quốc. Rằng thầy có đưa tay cởi dây và tượng, nhưng em Quốc phản ứng thụt lùi nên dây đeo bị đứt !?! Thầy còn cho biết thứ hai tuần trước (05-04-2010), thầy đã ra lệnh em cởi dây và tượng Thánh giá. Em Quốc xin thầy cho các bạn trong lớp đến làm chứng. Thầy cho gọi em Lê Quý Tựu và em Hoàng Thị Nhi tới tường thuật. Hai em kể lại sự việc y như em Quốc chứ không như thầy Tuyên trình bày.

Cha mẹ em Quốc liền nói với thầy là thầy vi phạm quyền trẻ thơ (đánh vào mặt em), chà đạp danh dự người khác (nhục mạ em trước mặt cả lớp học), làm thiệt hại tài sản công dân (giựt đứt dây đeo) và xúc phạm biểu tượng tôn giáo (Thánh giá). Thế nhưng cha mẹ em Quốc chỉ yêu cầu thầy nói rõ cho cả lớp biết hành vi của thầy đúng hay sai. Thầy không chấp thuận, còn dọa nếu muốn cứ lên gặp thầy Hiệu trưởng. Cha mẹ em Quốc từ giã ra về.

Trong Thánh lễ tối, giáo dân An Bằng và linh mục quản xứ Nguyễn Hữu Giải đã cầu nguyện cho em Quốc và cho quyền tự do tôn giáo.

Sáng 13-04-2010, ông chủ tịch Hội đồng Giáo xứ Văn Đình Trung và ông Phó chủ tịch Lê Lượng đã đến trường gặp thầy hiệu trưởng Phạm Hồng Hải. Họ đem theo một lá thư của linh mục quản xứ gửi thầy hiệu trưởng (xin xem hình) để trình bày vụ việc với ước mong thầy sớm giải tỏa ấn tượng “mang Thánh giá thì bị bách hại” tại trường THCS An Bằng.

Em Phaolô Lê Tiến Quốc

Ngay hôm sau, thầy hiệu trưởng Phạm Hồng Hải đã có thư phúc đáp dưới đây :

Sau khi nhận được thư của thầy hiệu trưởng, thì qua ngày hôm sau, linh mục quản xứ An Bằng, Phêrô Nguyễn Hữu Giải đã có bức thư dưới đây:

Nhận định

1- Sở dĩ có vụ việc một giáo viên dạy môn Công dân Giáo dục làm một hành vi phản giáo dục và xúc phạm công dân như trên, đó là vì cho tới nay, trong các sách giáo khoa cấp 1, 2, 3 do Bộ Giáo dục Cộng sản Việt Nam độc quyền biên soạn và ấn hành, đặc biệt là các sách môn Công dân và môn Lịch sử, còn nhiều chỗ vu khống và lăng mạ tôn giáo. Chẳng hạn trong Tài liệu Giáo dục Công dân lớp 8 của bộ Giáo dục và Đào tạo, do Ngô Văn Thâu và Vũ Quang Hảo biên soạn, Nxb Giáo dục ấn hành, tái bản lần thứ 10, ở trang 37 và 38 có bài “Chuyện vụ án: Trần Đình Thủ lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng”. Trần Đình Thủ chính là một linh mục, vị sáng lập dòng Đồng Công tại Thủ Đức. Ngay cả báo dành cho thiếu nhi của Cộng sản cũng không từ việc vu khống các lãnh đạo tôn giáo nhằm đầu độc các trẻ em (xin xem hình chụp trang báo Thiếu nhi Tiền phong tháng 10-2008 kèm theo). Ngoài ra, thái độ chống báng tôn giáo hay kỳ thị đối với học sinh sinh viên theo tôn giáo (nhất là Công giáo) nơi giáo viên và giáo sư, thậm chí nơi cả ban giám hiệu trong nhiều trường hợp vẫn còn bộc lộ, chẳng hạn vụ sinh viên Công giáo Vũ Hoàng Quang bị bắt và đánh đập tàn nhẫn trong Học viện Tài chính Hà Nội ngày 15-03-2010 mà nhà trường vẫn làm ngơ bỏ mặc. Hay mới đây là vụ trường Cao đẳng Sư phạm Vinh, tỉnh Nghệ An, hôm 14-04-2010, đã buộc các sinh viên làm bản cam kết về nhiều điều trong đó có điều 3: “Không tham gia hoạt động tôn giáo trái phép, không tụ tập sinh hoạt tôn giáo tại nhà riêng công dân, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự và vi phạm quy ước của địa phương” (xin xem hình chụp). Đây là một quy định vi phạm trắng trợn quyền tự do tôn giáo và xuyên tạc trắng trợn hoạt động tôn giáo.

2- Vụ việc học sinh Lê Tiến Quốc và sinh viên Vũ Hoàng Quang như trên không phải là trường hợp đơn lẻ mà chắc chắn vẫn xảy ra tại rất nhiều nơi trên khắp Việt Nam từ bao năm nay. Những vụ được nêu ra và đưa lên mạng cho bàn dân thiên hạ thấy nhằm tố cáo Cộng sản là do những người liên hệ (lãnh đạo tôn giáo hay bằng hữu đồng đạo) có lòng yêu mến thiết tha sự thật lẽ phải và tinh thần dũng cảm.

Ở đây tưởng nên nhắc lại bài Quan điểm của Hội đồng Giám mục Việt Nam về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay ra ngày 25-09-2008, trong đó có câu: “Đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi những người làm công tác truyền thông phải tôn trọng sự thật. Trong thực tế, đã có những thông tin bị bóp méo hoặc cắt xén, như trong trường hợp tranh chấp đất đai tại Tòa Khâm sứ cũ. Vì thế, chúng tôi đề nghị những người làm công tác truyền thông đại chúng phải hết sức cẩn trọng khi đưa tin tức và hình ảnh, nhất là khi liên quan đến danh dự và uy tín của cá nhân cũng như tập thể. Nếu đã phổ biến những thông tin sai lạc thì cần phải cải chính. Chỉ khi tôn trọng sự thật, truyền thông mới thực sự hoàn thành chức năng của mình là thông tin và giáo dục nhằm xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” Thư của Hội đồng Giám mục Việt Nam gởi Cộng đồng Dân Chúa ra ngày 09-04-2010, trong đó có câu: “Chúng ta đang sống trong thời đại của truyền thông. Được sử dụng cách đúng đắn, những phương tiện truyền thông hiện đại sẽ là những nhịp cầu của hiệp thông, yêu thương và liên đới. Tuy nhiên, những phương tiện này cũng có thể bị lạm dụng để gây chia rẽ, bất hoà và bất ổn”.


Hiển nhiên những lời trên là nhằm phê phán truyền thông của Cộng sản Việt Nam (gần 700 tờ báo và gần 100 đài truyền thanh truyền hình, chưa kể các trang mạng) vốn thường xuyên tạc sự thật và chuyên gây chia rẽ bất hòa. Nhưng để đương đầu với tình thế và cải thiện tình hình này, thì ngược lại, các môn đệ của Đức Kitô Sự Thật cũng phải có can đảm rao truyền chân lý hầu bênh vực lẽ phải. Giả như 2520 giáo xứ (theo thống kê mới nhất) trên toàn cõi Việt Nam -nơi giáo dân tụ về ít nhất ngày chủ nhật- đều là những trung tâm thông tin, có bảng thông tin hàng ngày hay hàng tuần, với những tin tức cập nhật về việc đàn áp nhân quyền, dân chủ và đàn áp tự do tôn giáo, y như tại 3 giáo xứ của các Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế ở Hà Nội, Huế và Sài Gòn, hầu giải độc tâm trí lẫn nuôi dưỡng đầu óc giáo dân (có khi cả lương dân), thì CS lấy đâu ra người để bịt mắt, bịt miệng? Và bức tường ngăn chận tin tức cũng như cái loa ra rả tin dổm của CS sớm muộn gì mà không đổ sụp tan tành! Thế nhưng con cái Sự Sáng và Sự Thật có khôn ngoan cùng can đảm hơn con cái Thế gian và Dối trá chăng?

Nhóm Phóng viên FNA Khối 8406 tường trình từ Huế lúc 22g ngày 18-04-2010


Thursday, April 08, 2010

 

Tuyên bố của Khối 8406 nhân dịp kỷ niệm 4 năm ngày thành lập (8/4/2006 -- 8/4/2010)

Khối 8406
Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006
Web: http://khoi8406vn.blogspot.com/
Email: vanphong8406@gmail.com

Tuyên bố của Khối 8406 nhân dịp kỷ niệm 4 năm
ngày thành lập (8/4/2006 -- 8/4/2010)

Kính gửi:
-- Toàn thể đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.
-- Các quốc hội và chính phủ dân chủ, các tổ chức nhân quyền và cộng đồng thế giới tiến bộ.

Khối 8406 được thành lập vào ngày 8-4-2006, là ngày mà bản Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt Nam 2006 (gọi tắt Tuyên ngôn 8406) được phổ biến rộng rãi. Với số thành viên ban đầu là 118 người dân trong nước, chỉ một thời gian ngắn sau đó, Khối 8406 đã nhận được sự ủng hộ và tham gia mạnh mẽ của hàng ngàn, rồi hàng chục ngàn đồng bào Việt Nam ở quốc nội lẫn hải ngoại.

Ðồng thời, nhiều nhà hoạt động chính trị, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, nhiều tổ chức phi chính phủ và công dân bình thường thuộc nhiều quốc gia trên thế giới như: Anh, Ba Lan, Ðức, Gia Nã Ðại, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Tiệp Khắc, Úc… cũng đã nhiệt liệt chào mừng và ủng hộ tinh thần lẫn nội dung bản Tuyên ngôn 8406; ca ngợi lòng dũng cảm của các thành viên Khối 8406 đã dám vượt qua mọi nỗi sợ hãi, quyết đứng lên đương đầu trực diện với chế độ độc tài toàn trị ở Việt Nam, nhằm đấu tranh giành lại các quyền tự do dân chủ thực sự cho dân tộc.

Trong lá Thư Ngỏ ngày 23-5-2006 của các nhân sĩ, trí thức, chính trị gia,… thuộc nhóm Hiến Chương 77 Tiệp Khắc, gửi đi từ thủ đô Praha cho Khối 8406, có đoạn viết: “Chúng tôi đã được biết đến "Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006” của các bạn. Chúng tôi rất trân trọng sự can đảm của các bạn trong hoàn cảnh chính trị tương tự như ở nước chúng tôi năm 1977, khi văn kiện cơ sở của Hiến Chương 77 được công bố. Chúng tôi biết rằng các bạn đang phải hứng chịu nguy cơ bị các cơ quan chính quyền truy nã, và chúng tôi hy vọng rằng mỗi biểu hiện đoàn kết sẽ là sự khích lệ và tăng cường sức mạnh cho các bạn. (…) Chúng tôi không thờ ơ trước vận mệnh đất nước Việt Nam. Chúng tôi tin rằng tiếng nói của các bạn sẽ không bị bóp nghẹt. Cho dù về mặt hình thức thì Hiến Chương 77 đã ngừng hoạt động sau tháng 11-1989, nhưng chúng tôi rất lấy làm vui mừng được bày tỏ sự ủng hộ đối với các bạn trên tư cách những cá nhân. Chúng tôi xin chúc cho nỗ lực của các bạn sẽ dẫn đến việc thiết lập nền tự do trong khoảng thời gian ngắn hơn là chúng tôi đã đạt được trong phong trào Hiến Chương 77…”

Trong lá thư gửi ngày 30-5-2006 từ thủ đô Washington, do 50 vị dân biểu Hoa Kỳ cùng ký tên có đoạn: “…Chúng tôi hy vọng lá thư này sẽ nhắc nhở cho những ai có ý đồ muốn bóp nghẹt những tiếng nói đòi tự do hoặc toan tính đe dọa hay đàn áp những người dân đã bày tỏ quan điểm của họ một cách bất bạo động là: mọi sự vi phạm nhân quyền sẽ mâu thuẫn với một hình ảnh ổn định và tiến bộ mà chính quyền Việt Nam đang muốn có. Ðây là điều toàn thể thế giới đang theo dõi. Với tất cả những ai đang sống tại Việt Nam đã ký tên vào những văn kiện lịch sử này, sự can đảm và quyết tâm của quý vị để bảo vệ tự do của con người bằng phương pháp bất bạo động là tấm gương sáng cho đồng bào cả nước, cho chính chúng tôi và cho toàn thế giới. Chúng tôi cam kết sẽ sát cánh cùng quý vị trong cuộc đấu tranh này…”

Cũng với một tinh thần đó, ngày 6-12-2006, tại phòng họp Quốc hội Liên bang ở thủ đô Canberra đã có 36 Dân biểu và Thượng Nghị sĩ Australia cùng ký tên vào một bức thư chung như sau: “...Chúng tôi ký tên dưới đây là những Dân biểu và Thượng nghị sĩ Australia muốn bày tỏ sự ủng hộ và ngưỡng mộ của chúng tôi đối với 118 công dân Việt Nam can đảm, được biết dưới tên Khối 8406 đã đồng ký tên vào bản Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam, ngày 8-4-2006 để kêu gọi cuộc vận động ôn hòa cho một tiến trình dân chủ hóa và đa đảng ở Việt Nam. (...) Sự góp mặt của phong trào dân chủ này chứng tỏ rằng khát vọng cho tự do và dân chủ là quy luật phổ quát cho tất cả các Dân tộc trên thế giới và phù hợp với những nguyên tắc được Quốc hội Australia tôn trọng. Là những đại diện được dân chúng bầu lên trong một nền dân chủ, chúng tôi có bổn phận phải lên tiếng thay cho những người mà tự do dân chủ của họ bị tước đoạt. Chúng tôi kêu gọi chính phủ nước CHXHCN Việt Nam hãy lắng nghe tiếng nói của Dân tộc mình và hãy có những bước tiến thích hợp để thay đổi và hướng về một xã hội tự do dân chủ, hội nhập hoàn toàn vào cộng đồng Quốc tế và thị trường toàn cầu. Thế giới đang theo dõi những gì đang diễn ra ở Việt Nam...”.

Nhân dịp kỷ niệm 4 năm ngày thành lập Khối 8406 (8/4/2006 -- 8/4/2010), chúng tôi một lần nữa xin chân thành cảm ơn mọi sự ủng hộ, giúp đỡ đầy nhiệt tình và hiệu quả của đồng bào Việt Nam trong lẫn ngoài nước; của bạn bè quốc tế khắp 5 châu đối với Khối 8406 nói riêng và phong trào dân chủ Việt Nam nói chung, trong những năm qua. Chúng tôi nguyện sẽ luôn luôn xứng đáng với lòng tin yêu đó của mọi người và khẳng định rằng: cho dù chặng đường trước mặt còn phải trải qua khó khăn, gian khổ khốc liệt đến mấy, chúng tôi vẫn tiếp tục dấn thân, quyết cùng với dân tộc và thế giới tiến bộ đấu tranh giành lại các quyền tự do dân chủ thực sự cho Tổ quốc Việt Nam thân yêu!

Cũng nhân dịp này, Khối 8406 xin tuyên bố với đồng bào Việt Nam và cộng đồng thế giới như sau:

1) Trung thành tuyệt đối với tinh thần và nội dung Tuyên ngôn 8406 qua các điểm:

- Mục tiêu đấu tranh là thay thế triệt để thể chế chính trị nhất nguyên, độc đảng, phi dân chủ, phản dân tộc, không chấp nhận sự cạnh tranh của các chính đảng khác trên chính trường hiện nay bằng thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng và pháp trị tiến bộ.

- Phương pháp đấu tranh là mọi phương pháp mà các cá nhân, tập thể, tổ chức bất bạo động đã sử dụng kiến hiệu từ lâu nay trên thế giới, đặc biệt nơi thánh Gandhi, luật sư Martin Luther King, phong trào dân chủ tại Ðông Âu các năm 1989-1991 và phong trào dân chủ tại Việt Nam hiện giờ.

- Lực lượng của cuộc đấu tranh là đại bộ phận dân tộc Việt Nam cả trong lẫn ngoài nước, bao gồm mọi giới : trí thức, viên chức, văn nghệ sĩ, thương nhân, công nhân, nông dân, cựu chiến binh, sinh viên, học sinh… và cả 2 lực lượng quân đội lẫn công an mà hiện nay cũng thuộc tầng lớp bị trị. Ngoài ra còn có cộng đồng thế giới dân chủ tiến bộ. Tất cả làm thành sự kết hợp chặt chẽ, hữu cơ giữa sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.

- Ðộng lực đồng thời là khối tiên phong của cuộc đấu tranh là tầng lớp sĩ phu chân chính trong giới trí thức và giới tu hành vốn không chịu thờ ơ, vô cảm trước khổ đau của đồng bào và đồng loại để chỉ chăm lo cho bản thân hay cộng đồng mình.

- Ðối tượng của cuộc đấu tranh là các thế lực độc tài, phản dân chủ đang nắm thực quyền trong Ðảng Cộng sản Việt Nam hiện nay và những thành phần cấu kết với họ để chia chác quyền lực và quyền lợi. Thế lực này đang thiết lập và duy trì ách thống trị của họ một cách hết sức bất lương và tàn ác lên đầu lên cổ dân tộc, đang vì quyền lợi ích kỷ của tập đoàn mình mà chà đạp thô bạo quyền lợi chính đáng của tuyệt đại đa số nhân dân! Chính họ đang bất chấp sự tụt hậu của quốc gia, sự suy vong của giống nòi mà phớt lờ ý chí và nguyện vọng cháy bỏng của dân tộc Việt Nam hôm nay là thực sự dân chủ hoá đất nước! Vì vậy, trong lòng dân tộc hiện thời, đang có mâu thuẫn lớn lao và cơ bản giữa giai cấp thống trị thiểu số cực kỳ tham lam, tàn ác, sống xa hoa phè phỡn, với giai cấp bị trị chiếm đại đa số đang sống rên xiết lầm than như nô lệ.

- Ý nghĩa của cuộc đấu tranh là chính nghĩa nhất định thắng phi nghĩa, tiến bộ nhất định thắng lạc hậu và chí nhân nhất định thắng bạo tàn!

2) Khẳng định dựa trên tất cả những gì đã và đang diễn ra, rằng:

Dứt khoát không thể xây dựng một Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trong tình trạng vẫn còn tồn tại chế độ độc tài, độc đảng và toàn trị hiện nay! Chế độ này không thể gìn giữ đạo đức xã hội đang ngày càng xuống cấp, không thể chống được quốc nạn tham nhũng đang ngày càng hoành hành, không thể bảo vệ sự an toàn của mỗi công dân và mỗi gia đình đang ngày càng bị xâm phạm, không thể bảo toàn nền an ninh quốc gia đang ngày càng bị đe dọa…

Nguy hiểm hơn, chế độ ấy đang đẩy dân tộc ta vào một nguy cơ mất nước kiểu mới đến từ kẻ thù truyền kiếp phương Bắc. Về vấn đề này, Khối 8406 chúng tôi nhận định rằng: Trong điều kiện, hoàn cảnh quốc tế ngày nay, việc Trung Quốc đem quân xâm lược toàn bộ Việt Nam có khả năng rất thấp. Thế nhưng, việc Trung Quốc tìm mọi cách mua chuộc và khống chế một số thành phần lãnh đạo trọng yếu trong bộ máy cầm quyền Hà Nội, để số này răm rắp phục tùng chiếc gậy chỉ huy của Bắc Kinh là điều hoàn toàn có thể và khả năng này rất cao. Thực chất, đây là cách dùng người Việt cai trị người Việt theo kiểu thái thú mà không cần xâm lược bằng quân sự theo kiểu cổ điển. Nói cách khác, đây là thủ đoạn “Polpot hoá”, “Khơme đỏ hoá” Việt Nam, mà Trung Quốc từng sử dụng tại nước gọi là “Campuchia dân chủ” trong giai đoạn 1975�"1979, đẩy dân tộc hiền hòa này vào thảm họa diệt chủng kinh hoàng.

Những biểu hiện của chủ trương đó là Trung Quốc đã chiếm đoạt hàng ngàn km2 lãnh thổ biên giới và hàng chục ngàn km2 lãnh hải biển Ðông; đã nhiều phen ngang nhiên cấm cản hay bắn thẳng vào ngư dân Việt Nam khi họ ra khơi đánh cá trong lãnh hải Tổ quốc; đã trúng thầu dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên và hàng trăm dự án xây nhà máy, xây xa lộ trên khắp cả nước; đã được “thuê miễn phí” 50 năm hàng trăm ngàn hécta rừng quốc phòng, rừng phòng hộ từ Bắc chí Nam; đã thiếp lập nhiều khu cư dân Trung Quốc bất khả xâm phạm tại nhiều tỉnh thành; đã du nhập ồ ạt vào Việt Nam vô số sản phẩm tàn hại nền văn hóa và kinh tế quốc gia cũng như tai hại cho sức khỏe đồng bào… Tất cả đều có sự dung túng, nhượng bộ, đi đêm hay đồng lõa của đảng và nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam. Ngoài ra, mọi ý kiến cảnh báo nguy cơ Bắc triều, mọi hành động phản đối lân bang xâm lược đều đã bị Hà Nội coi khinh hay đàn áp.

3) Ðòi hỏi Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam

+ Tôn trọng các quyền tự do của mọi công dân, tôn trọng quyền tự quyết của toàn thể Dân tộc.

+ Thả khỏi tù ngay tức khắc và vô điều kiện tất cả những công dân yêu nước vì đấu tranh cho tự do dân chủ mà phải bị tống ngục. (Danh sách chưa đầy đủ được đăng ở phần Phụ lục, đính kèm với bản Tuyên bố này.)

+ Chấm dứt ngay mọi hành động vi phạm nghiêm trọng quyền con người, vi phạm chính Hiến pháp, luật pháp của CHXHCN Việt Nam đối với những người đấu tranh dân chủ như: theo dõi canh gác, quản chế tại gia, buộc đi thẩm vấn, nghe trộm điện thoại, đọc trộm bưu thư điện thư, cắt điện thoại và internet; nhục mạ khi tiếp xúc, vu cáo trên phương tiện truyền thông; khám tư gia, tịch thu tài sản, xử phạt hành chính; đuổi việc, bao vây kinh tế, sách nhiễu thân nhân; sử dụng côn đồ hành hung, ném chất bẩn vào nhà; ngăn cản những người đấu tranh dân chủ trong lẫn ngoài nước gặp gỡ nhau; tạm giam trái phép, xét xử và kết án nhiều năm tù với những tội danh vu vơ, ngụy tạo, v.v… Tất cả những hành động xấu xa, bỉ ổi này của công an và tòa án Việt Nam, dưới sự điều khiển của đảng cộng sản địa phương hoặc trung ương, đều được khoác lên cụm mỹ từ “bảo vệ an ninh quốc gia và ổn định trật tự xã hội!”.

4) Nhiệt liệt chào mừng sự trở lại với xã hội bình thường, trong tự do hạn chế, của 2 thành viên ưu tú thuộc Khối 8406 là linh mục Nguyễn Văn Lý và luật sư Lê Thị Công Nhân. Ðồng thời thiết tha tưởng nhớ hàng chục thành viên khác đang hy sinh cho đại cuộc trong lao tù cộng sản.

5) Chân thành cảm ơn và hoàn toàn ủng hộ vô số nỗ lực của đồng bào lẫn thân hữu quốc tế nhằm hỗ trợ cho các tù nhân lương tâm, nhất là những bản tuyên bố mới đây của các tổ chức: Văn Bút Quốc tế, Ân Xá Quốc Tế, Cao Trào Nhân Bản và một số Cộng đồng người Việt hải ngoại về việc đòi trả tự do hoàn toàn, vĩnh viễn cho linh mục Nguyễn Văn Lý và chấm dứt ngay việc quản chế, xách nhiễu đối với luật sư Lê Thị Công Nhân.

6) Hết lòng ca ngợi đức dũng cảm, chí bất khuất, sự mưu trí và tinh thần bền bỉ đấu tranh bất chấp khó khăn, nguy hiểm… của mọi thành viên Khối 8406 trong lẫn ngoài nước. Sự hy sinh của quý Anh Chị Em là vô cùng quý giá và rất đáng trân trọng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển của Khối 8406 nói riêng và phong trào dân chủ Việt Nam nói chung.

7) Nhân việc tái phát động trong dịp này chiến dịch “MẶC ÁO TRẮNG VÀO NGÀY MỒNG 01 VÀ 15 MỖI THÁNG, ÐỂ ỦNG HỘ DÂN CHỦ TẠI VIỆT NAM”, chúng tôi xin kêu gọi toàn thể đồng bào trong lẫn ngoài nước vui lòng hưởng ứng mạnh mẽ, và các trang mạng đấu tranh vui lòng phổ biến rộng rãi chiến dịch đó. Sau cùng, chúng tôi kêu mời cộng đồng thế giới tiến bộ hãy cùng đồng tâm hiệp sức với chúng tôi tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp dân chủ hóa Việt Nam cho đến ngày giành được thắng lợi hoàn toàn!

Làm tại Việt Nam ngày 3 tháng 4 năm 2010.

Ban Ðại diện lâm thời Khối 8406:

1. Kỹ sư Ðỗ Nam Hải - 441 Nguyễn Kiệm, P. 9, Q. Phú Nhuận, Sài Gòn, Việt Nam.

2. Linh mục Phan Văn Lợi - 16/46 Trần Phú, Thành phố Huế, Việt Nam.

3. Linh mục Nguyễn Văn Lý - đang bị quản thúc tại 64 Phan Ðình Phùng (Nhà Chung), Tp Huế.

4. Giáo sư Nguyễn Chính Kết - đang vận động dân chủ tại hải ngoại.

Trong sự hiệp thông với cựu quân nhân Trần Anh Kim, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và nhiều tù nhân chính trị, tôn giáo khác đang ở trong lao tù cộng sản.

Phần phụ lục

1- Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006

của 118 Nhà Ðấu tranh Dân chủ quốc nội Việt Nam

Việt Nam, 8-4-2006

Kính gửi Ðồng bào Việt Nam ở trong và ngoài Nước,

Chúng tôi, ký tên dưới đây, đại diện cho hàng trăm nhà đấu tranh Dân chủ ở quốc nội và tất cả mọi người Dân nào đang khao khát một nền Dân chủ chân chính cho Quê hương Việt Nam hôm nay, đồng thanh lên tiếng :

I. Thực trạng của Việt Nam

1- Trong cuộc Cách mạng tháng 8-1945, sự lựa chọn của toàn Dân tộc ta là Ðộc lập Dân tộc, chứ không phải là chủ nghĩa xã hội. Bản Tuyên ngôn Ðộc lập ngày 2-9-1945 chẳng nhắc đến một từ nào về chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa Cộng sản cả. Hai nguyên nhân chính làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng ấy là Khát vọng Ðộc lập Dân tộc và Khoảng trống quyền lực lúc bấy giờ ở Việt Nam (thực dân Pháp đã bị quân Nhật đảo chính cướp quyền từ ngày 9-3-1945 và quân Nhật đã đầu hàng phe Ðồng minh ngày 15-8-1945).

Rõ ràng mục tiêu của cuộc cách mạng ấy đã bị đảng Cộng sản VN đánh tráo. Và dĩ nhiên, Quyền Dân tộc tự quyết cũng hoàn toàn bị thủ tiêu. Ðã có ít nhất 2 cơ hội lịch sử rất thuận lợi là năm 1954 ở miền Bắc và năm 1975 trên cả nước, để Dân tộc khẳng định Quyền tự quyết của mình. Nhưng tất cả đều đã bị đảng Cộng sản VN tráo trở không thực hiện. Vì một khi nền chuyên chính vô sản đã được thiết lập, thì theo Lênin, chức năng đầu tiên của nó chính là : bạo lực và khủng bố trấn áp !

2- Tiếp đến, ngày 2-9-1945 tại Hà Nội, ông Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã trịnh trọng tuyên bố với Dân tộc và với Thế giới rằng : "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được ; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời nói bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Ðộc lập nǎm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là : mọi Dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp nǎm 1791 cũng nói : "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi ; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". Ðó là những lẽ phải không ai chối cãi được…” (trích Tuyên ngôn Ðộc lập 2-9-1945).

Thế nhưng, tất cả những quyền thiêng liêng ấy của Dân tộc đều bị chà đạp thô bạo ngay sau đó, khi mà chính quyền Cộng sản được dựng lên.

3- Ðến tháng 2-1951 Tuyên ngôn của đảng Lao động Việt Nam (nay là đảng Cộng sản Việt Nam) kỳ đại hội lần thứ 2, đã viết: “Chủ nghĩa của Ðảng là chủ nghĩa Mác�"Lênin”. Và trong Ðiều lệ, phần Mục đích và Tôn chỉ còn khẳng định rõ ràng hơn : “Ðảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Ǎngghen - Lênin - Xtalin và tư tưởng Mao Trạch Ðông, kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Ðảng…”.

Kể từ đó, nhất là ở miền Bắc sau năm 1954, rồi cả nước sau ngày 30-4-1975, bóng ma của chủ nghĩa Cộng sản đã luôn đè ám lên đầu, lên cổ toàn Dân Việt Nam. Chính cái bóng ma ấy chứ không phải là cái gì khác đã triệt tiêu hầu hết những quyền con người của Nhân dân Việt Nam. Và hôm nay, nó vẫn đang tạm đô hộ, chiếm đóng lên cả 2 mặt tinh thần và thể chất của toàn Dân tộc Việt Nam.

II. Qui luật phổ biến toàn cầu

1- Lịch sử đã minh định rằng mọi quyền tự do, dân chủ ở bất cứ một chế độ độc đảng toàn trị nào, dù Cộng sản hay không Cộng sản, cũng đều bị chà đạp không thương tiếc, chỉ khác nhau ở mức độ mà thôi. Bất hạnh thay là cho đến nay, Dân tộc Việt Nam vẫn thuộc về một trong số ít các Quốc gia trên thế giới còn bị cai trị bởi chế độ độc đảng toàn trị Cộng sản. Ðiều này thể hiện cụ thể tại Ðiều 4 của Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa VN hiện hành, rằng : “Ðảng Cộng sản Việt Nam... theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.” Chính vì điều này mà các quyền tự do, dân chủ của Nhân dân đã hoàn toàn bị triệt tiêu, may ra chỉ còn vài mẩu vụn mà thôi !

2- Chính hệ thống quyền lực không hề chấp nhận cạnh tranh và không hề chấp nhận bị thay thế này đã thúc đẩy mạnh mẽ đà thoái hoá, biến chất của toàn bộ hệ thống ấy. Vì chẳng có qui luật và nguyên tắc cạnh tranh công bằng nào trên chính trường, nên sau những kỳ bầu cử, toàn Dân không thể chọn được những con người và những lực lượng chính trị xứng đáng nhất. Bộ máy lãnh đạo, quản lý và điều hành do vậy ngày càng hư hỏng, rệu rã từ trung ương xuống cơ sở địa phương. Hậu quả là Việt Nam hôm nay trở thành Quốc gia bị tụt hậu quá xa so với các Nước trong khu vực và thế giới. Quốc nhục này và các quốc nạn khác khó bề tẩy xóa. Vấn đề của mọi vấn đề, nguyên nhân của mọi nguyên nhân chính vì đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo Ðất nước ! Thực tiễn đã xác minh rằng bất kỳ Nước nào đã bị rơi vào quỹ đạo của chủ nghĩa Cộng sản thì đều điêu tàn thê thảm cả. Liên Xô, cái nôi Cộng sản, cùng với các Nước xã hội chủ nghĩa Ðông Âu khác, đã dũng cảm vượt qua chính mình để quay lại tìm đường đi đúng cho Dân tộc họ.

3- Chúng ta đều hiểu rằng : không ai có thể sửa được lịch sử, nhưng có thể bẻ chiều lịch sử. Và điều quan trọng hơn là qua những bài học của lịch sử, định hướng tốt cho tương lai. Con đường hôm qua của Dân tộc ta đã bị những người Cộng sản Việt Nam chọn một cách vội vàng, thiếu chín chắn và áp đặt cho cả Dân tộc một cách khiên cưỡng. Con đường ấy thực tế đã chứng minh là hoàn toàn sai lạc. Vì vậy Dân tộc ta hôm nay phải chọn lại con đường cho mình. Và chắc chắn cả Dân tộc cùng chọn sẽ tốt hơn một người hay một nhóm người nào đó. Ðảng Cộng sản Việt Nam cũng chỉ là một bộ phận của Dân tộc, nên không thể mạo danh Dân tộc để chọn thay ! Trước Dân tộc và lịch sử suốt hơn nửa thế kỷ qua (1954�"2006), Ðảng cầm quyền ấy đã tiếm danh chứ không chính danh chút nào ! Bởi lẽ các cuộc bầu cử thực sự tự do hoàn toàn vắng bóng ở Việt Nam.

Từ thực trạng và qui luật trên đây, với ý thức trách nhiệm của Công dân trước vận mệnh Ðất nước, chúng tôi xin được phép giãi bày cùng toàn thể Ðồng bào VN trong và ngoài Nước :

III. Mục tiêu, phương pháp và ý nghĩa cuộc đấu tranh

1- Mục tiêu cao nhất trong cuộc đấu tranh giành tự do, dân chủ cho Dân tộc hôm nay là làm cho thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay phải bị thay thế triệt để, chứ không phải được “đổi mới” từng phần hay điều chỉnh vặt vãnh như đang xảy ra. Cụ thể là phải chuyển từ thể chế chính trị nhất nguyên, độc đảng, không có cạnh tranh trên chính trường hiện nay, sang thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng, có cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với những đòi hỏi chính đáng của Ðất nước, trong đó hệ thống tam quyền Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp phải được phân lập rõ ràng, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và trải nghiệm của Nhân loại qua những nền dân chủ đắt giá và đầy thành tựu.

Mục tiêu cụ thể là thiết lập lại các quyền cơ bản của toàn Dân sau đây

- Quyền Tự do Thông tin Ngôn luận theo Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị của Liên Hiệp Quốc được biểu quyết ngày 16-12-1966, VN xin tham gia ngày 24-9-1982, điều 19,2: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận, quyền nầy bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức truyền miệng, bằng bản viết, bản in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua bất cứ phương tiện truyền thông đại chúng khác tuỳ theo sự lựa chọn của mình”. Nghĩa là các đảng phái, tổ chức, cá nhân có quyền thông tin ngôn luận qua báo chí, phát thanh, truyền hình và các phương tiện truyền thông đại chúng khác mà không cần đợi phép của nhà cầm quyền.

- Quyền Tự do hội họp, lập hội, lập đảng, bầu cử và ứng cử theo Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, điều 25 : “Mọi Công dân… đều có quyền và cơ hội để (a) tham gia vào việc điều hành các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua những đại diện được họ tự do lựa chọn”; (b) bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử định kỳ chân thực, bằng phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín nhằm đảm bảo cho cử tri tự do bày tỏ ý nguyện của mình”. Nghĩa là các đảng phái thuộc mọi khuynh hướng cùng nhau cạnh tranh lành mạnh trong một nền dân chủ đa nguyên, đa đảng chân chính.

- Quyền Tự do Hoạt động Công đoàn độc lập và Quyền Ðình công chính đáng theo Công ước Quốc tế về các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, được LHQ biểu quyết ngày 16-12-1966, VN xin tham gia ngày 24-9-1982, điều 7 và 8 : “Các Quốc gia thành viên của Công ước công nhận quyền của mọi người được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi…, quyền của mọi người được thành lập và gia nhập Công đoàn mà mình lựa chọn, chỉ phải tuân theo quy chế của Tổ chức đó để thúc đẩy và bảo vệ các lợi ích kinh tế và xã hội của mình… (với) quyền đình công…”. Các công đoàn này phải là những tổ chức duy nhất hoạt động độc lập, không có những loại Công đoàn tay sai của nhà cầm quyền.

- Quyền Tự do Tôn giáo theo Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, điều 18 : “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền tự do này bao gồm tự do có hoặc theo một Tôn giáo hoặc Tín ngưỡng do mình lựa chọn, tự do bày tỏ Tín ngưỡng hoặc Tôn giáo một mình hoặc trong tập thể với nhiều người khác, một cách công khai hoặc thầm kín dưới hình thức thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền đạo”. Các Tôn giáo này phải hoạt động độc lập, chứ không thể bị biến thành công cụ cho nhà cầm quyền.

2- Phương pháp của cuộc đấu tranh này là hòa bình, bất bạo động. Và chính Dân tộc Việt Nam chủ động thực hiện cuộc đấu tranh này. Tuy nhiên, chúng ta rất cảm ơn sự ủng hộ nhiệt tình và ngày càng hiệu quả của tất cả những bạn bè trên thế giới. Thông qua những phương tiện thông tin hiện đại và qua sự giao lưu quốc tế ngày càng rộng mở, chúng ta sẽ tìm mọi cách giúp Ðồng bào kiện toàn nhận thức. Và một khi Nhân dân đã có nhận thức đúng và rõ thì nhất định sẽ biết hành động thích hợp và hiệu quả.

3- Ý nghĩa của cuộc đấu tranh này là làm cho chính nghĩa thắng phi nghĩa, tiến bộ thắng lạc hậu, các lực lượng dân tộc đang vận dụng đúng quy luật của cuộc sống và xu thế của thời đại thắng những tà lực đang tìm cách đi ngược lại những xu thế và quy luật ấy. Ðảng Cộng sản Việt Nam vẫn còn đồng hành cùng Dân tộc hay không là tùy ở mức độ đảng ấy có khách quan, công bằng, sáng suốt và khiêm tốn chấp nhận các nguyên tắc bình đẳng của cuộc cạnh tranh lành mạnh hay không, chỉ có thể chế chính trị độc đảng ấy là dứt khoát phải bị chôn táng vĩnh viễn vào quá khứ. Từ đó, Dân tộc sẽ tìm được những con người tốt nhất, những lực lượng chính trị giỏi nhất sau mỗi kỳ bầu cử để lãnh đạo Ðất nước. Nguyên tắc “lẽ phải toàn thắng” sẽ được thiết lập và cuộc sống cá nhân sẽ trở nên tốt hơn, xã hội sẽ trở nên nhân bản hơn và Ðồng bào sẽ sống với nhau thân thiện hơn.

Chúng tôi mong ước Tuyên ngôn này thúc đẩy được sự đóng góp tích cực của Ðồng bào trong ngoài Nước và sự ủng hộ của Bạn bè Quốc tế. Chúng tôi chân thành cảm ơn và kêu gọi các Cơ quan Liên Hiệp Quốc, các Quốc hội, Chính phủ, Tổ chức Quốc tế và Bạn bè trên toàn thế giới tiếp tục ủng hộ cách nhiệt tình và hiệu quả cho cuộc đấu tranh đầy chính nghĩa này, góp phần đưa Tổ quốc Việt Nam sớm sánh vai cùng các Nước văn minh, đạo đức, thịnh vượng, tự do trong cộng đồng Nhân loại hôm nay.

Ðồng tuyên bố tại Việt Nam ngày 08 tháng 4 năm 2006

1- Bs Nguyễn Xuân An, Huế. 2- Gv Ðặng Hoài Anh, Huế. 3- Gv Ðặng Văn Anh, Huế. 4- Bs. Lê Hoài Anh, Nha Trang. 5- Gs Nguyễn Kim Anh, Huế. 6- Gs Nguyễn Ngọc Anh, Ðà Nẵng. 7- Nv Trịnh Cảnh, Vũng Tàu. 8- Lm F.X. Lê Văn Cao, Huế. 9- Gv Lê Cẩn, Huế. 10- Lm Giuse Hoàng Cẩn, Huế. 11- Gv Trần Thị Minh Cầm, Huế. 12- Lm Giuse Nguyễn Văn Chánh, Huế. 13- Gv Nguyễn Thị Linh Chi, Cần Thơ. 14- Gs Hoàng Minh Chính, Hà Nội. 15- Gv Nguyễn Viết Cử, Quảng Ngãi. 16- Ths Ðặng Quốc Cường, Huế. 17- Nv Nguyễn Ðắc Cường, Phan Thiết. 18- Dn Hồ Ngọc Diệp, Ðà Nẵng. 19- Gv Trần Doãn, Quảng Ngãi. 20- Ms Lê Thị Phú Dung, Sài Gòn. 21- Gv Hồ Anh Dũng, Huế. 22- Gs Trương Quang Dũng, Huế. 23- Bs Hà Xuân Dương, Huế. 24- Cựu Ðại tá Phạm Quế Dương, Hà Nội. 25- Ls Nguyễn Văn Ðài, Hà Nội. 26- Kt Trần Văn Ðón, Phan Thiết. 27- Bs Hồ Ðông, Vĩnh Long. 28- Lm Phêrô Nguyễn Hữu Giải, Huế. 29- Dn Trần Văn Ha, Ðà Nẵng. 30- Gv Lê Thị Bích Hà, Cần Thơ. 31- Bs Lê Thị Ngân Hà, Huế. 32- Gv Lê Nguyễn Xuân Hà, Huế. 33- Vũ Thuý Hà, Hà Nội. 34- Ks Ðỗ Nam Hải, Sài Gòn. 35- Gv Trần Thạch Hải, Hải Phòng. 36- Kt Trần Việt Hải, Vũng Tàu. 37- Ks Ðoàn Thị Diệu Hạnh, Vũng Tàu. 38- Dn Nguyễn Thị Hạnh, Ðà Nẵng. 39- Gv Phan Thị Minh Hạnh, Huế. 40- Gs Ðặng Minh Hảo, Huế. 41- Nv Trần Hảo, Vũng Tàu. 42- Nv Trần Mạnh Hảo, Sài Gòn. 43- Gv Lê Lệ Hằng, Huế. 44- Lm Giuse Nguyễn Ðức Hiểu, Bắc Ninh. 45- Yt Chế Minh Hoàng, Nha Trang. 46- Gv Văn Ðình Hoàng, Huế. 47- Gv Lê Thu Minh Hùng, Sài Gòn. 48- Gs Nguyễn Minh Hùng, Huế. 49- Lm Gk Nguyễn Văn Hùng, Huế. 50- Gv Phan Ngọc Huy, Huế. 51- Gv Lê Thị Thanh Huyền, Huế. 52- Gv Ðỗ Thị Minh Hương, Huế. 53- Ths Mai Thu Hương, Hải Phòng. 54- Yt Trần Thu Hương, Ðà Nẵng. 55- PTs Nguyễn Ngọc Kế, Huế. 56- Gs Nguyễn Chính Kết, Sài Gòn. 57- Ths Nguyễn Quốc Khánh, Huế. 58- Gv Nguyễn Ðăng Khoa, Huế. 59- Cựu Thiếu tá Vũ Kính, Hà Nội. 60- Nv Bùi Lăng, Phan Thiết. 61- Gv Tôn Thất Hoàng Lân, Sài Gòn. 62- Hội trưởng PGHHTT Lê Quang Liêm, Sài Gòn. 63- Bs Vũ Thị Hoa Linh, Sài Gòn. 64- Lm G.B. Nguyễn Cao Lộc, Huế. 65- Lm Phêrô Phan Văn Lợi, Huế. 66- Gv Ma Văn Lựu, Hải Phòng. 67- Gv Nguyễn Văn Lý, Hải Phòng. 68- Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý, Huế. 69- Gv Cái Thị Mai, Hải Phòng. 70- Gv Cao Thị Xuân Mai, Huế. 71- Gv Nguyễn Văn Mai, Sài Gòn. 72- Nv Hà Văn Mầu, Cần Thơ. 73- Gv Phan Văn Mậu, Huế. 74- Nv Lê Thị Thu Minh, Cần Thơ. 75- Gv Ma Văn Minh, Huế. 76- Gv Nguyễn Anh Minh, Sài Gòn. 77- Bs Huyền Tôn Nữ Phương Nhiên, Ðà Nẵng. 79- Bùi Kim Ngân, Hà Nội. 79- Ths Ðặng Hoài Ngân, Huế. 80- Lm G.B. Lê Văn Nghiêm, Huế. 81- Ms Ngô Hoài Nở, Sài Gòn. 82- Gv Lê Hồng Phúc, Hải Phòng. 83- Lm Ðaminh Phan Phước, Huế. 84- Ks Võ Lâm Phước, Sài Gòn. 85- Lm Giuse Cái Hồng Phượng, Huế. 86- Ms Nguyễn Hồng Quang, Sài Gòn. 87- Ks Tạ Minh Quân, Cần Thơ. 88- Lm Augustinô Hồ Văn Quý, Huế. 89- Lm Giuse Trần Văn Quý, Huế. 90- Bs Võ Văn Quyền, Vĩnh Long. 91- Bs. Trần Thị Sen, Nha Trang. 92- Cư sĩ PGHHTT Lê Văn Sóc, Vĩnh Long. 93- Ks Hoàng Sơn, Hải Phòng. 94- Lm Phaolô Ngô Thanh Sơn, Huế. 95- Gs Nguyễn Anh Tài, Ðà Nẵng. 96- Ks Ðỗ Hồng Tâm, Hải Phòng. 97- Bs Tạ Minh Tâm, Cần Thơ. 98- Gs Nguyễn Thành Tâm, Huế. 99- Ms Phạm Ngọc Thạch, Sài Gòn. 100- Gv Nguyễn Bình Thành, Huế. 101- Gv Văn Bá Thành, Huế. 102- Cư sĩ PGHHTT Nguyễn Văn Thơ, Ðồng Tháp. 103- Ths Trần Mạnh Thu, Hải Phòng. 104- Gs Ts Trần Hồng Thư, Sài Gòn. 105- Nv Hoàng Tiến, Hà Nội. 106- Cựu Sq Trần Dũng Tiến, Hà Nội. 107- Lm Têphanô Chân Tín, Sài Gòn. 108- Gv Nguyễn Khắc Toàn, Hà Nội. 109- Nv Tôn Nữ Minh Trang, Phan Thiết. 110- Gv Chế Thị Hồng Trinh, Huế. 111- Bs Nguyễn Anh Tú, Ðà Nẵng. 112- Bs Ðoàn Minh Tuấn, Sài Gòn. 113- Gv Lê Trí Tuệ, Hải Phòng. 114- Yt Trần Thị Hoài Vân, Nha Trang. 115- Gv Ngô Thị Tường Vi, Quảng Ngãi. 116- Gv Nguyễn Lê Xuân Vinh, Cần Thơ. 117- Ths Hồ Ngọc Vĩnh, Ðà Nẵng. 118- Ks Lâm Ðình Vĩnh, Sài Gòn 

2) Danh sách Nhóm Hiến Chương 77 �" Tiệp Khắc ủng hộ Khối 8406, trong Thư Ngỏ gửi đi từ thủ đô Praha, ngày 23 tháng 5 năm 2006.

1-Zdeněk Bárta, 2-Jan Bednář, 3-Jiří Bednář, 4-John Bok, 5-Otta Bednářová, 6-Jarmila Bělíková, 7-Jiří Boreš, 8-Jiří Dienstbier, 9-Jan Zeno Dus, 10-Přemysl Fialka, 11-Karel Freund, 12-Václav Havel, 13-Jiří Holba, 14-Jaroslav Hutka, 15-Mikoláš Chadima, 16-Heřman Chromý , 17-Přemysl Janýr, 18-Helena Klímová, 19-Vavřinec Korčiš, 20-Václav Malý, 21-David Němec, 22-Ondřej Němec, 23-Martin Palouš, 24-Petr Pithart, 25-Věra Roubalová, 26-František Rudl, 27-Jan Ruml, 28-Jan Schneider, 29-Vojtěch Sedláček, 30-Karol Sidon, 31-Jan Sokol, 32-Jan Štern, 33-Jan Šabata, 34-Jaroslav Šabata,, 35-Anna Šabatová, 36-Jiřina Šiklová, 37-Libuše Šilhánová, 38-Jan Šimsa, 39-Václav Trojan, 40-Trinkewitze, 41-Petr Uhl, 42-Jan Urban, 43-Jiří Vančura, 44-Zdeněk Vašíček, 45-Tomáš Vrba, 46-Jan Zvěřina, 47-Václav Žák, và 3 người chịu trách nhiệm canh giữ di sản của Hiến Chương 77 cùng ký là 48-Rudolf Battěk, 49-Jiří Gruntorád, 50-Dana Němcová.

3) Danh sách 50 dân biểu Hoa Kỳ ủng hộ Khối 8406, trong Thư Ngỏ gửi đi ngày 30-5-2006 từ thủ đô Washington:

1-Loretta Sanchez, 2-Tom Davis, 3-Chris Smith, 4-Zoe Lofgren, 5-Major Owens, 6-Linda Sanchez, 7-Shelley Berkley, 8-Carolyn McCarthy, 9-Grace Napolitano, 10-Jim Matheson, 11-Charles A-Gonzalez, 12-Dan Boren, 13-Ed Case, 14-Allen Boyd, 15-Alan B-Mollohan, 16-Mike Thompson, 17-Ellen Tauscher, 18-Gene Taylor, 19-Nita Lowey, 20-Ed Pastor, 21-Charlie Melancon, 22-Bud Cramer, 23-Ron Kind, 24-Ben Chandler, 25-Mike Ross, 26-Mike Doyle, 27-Leonard Boswell, 28-Alcee Hastings, 29-Brad Sherman, 30-Dennis Cardoza, 31-Ted Strickland, 32-Sherrod Brown, 33-Jan Schakowsky, 34-Carolyn Maloney, 35-Chris Van Hollen, 36-Maurice Hinchey, 37-Gary Ackerman, 38-Raúl Grijalva, 39-Kendrick Meek, 40-Hilda Solis, 41-Tim Ryan, 42-Benjamin Cardin, 43-Al Green, 44-Mike Honda, 45-Tammy Baldwin, 46-Adam Schiff, 47-Dan Burton, 48-Susan Davis, 49-Michael McNulty, 50-Ed Royce

4) Danh sách 36 Dân biểu và Thượng Nghị sĩ Quốc hội Liên bang Australia ủng hộ Khối 8406, trong bức Thư Ngỏ ngày 6-12-2006, gửi đi từ thủ đô Canberra �" Australia:

Chris Bowen, Bruce Baird, Andrew Bartlett, Kerry Bartlett, Sharon Bird, George Brandis, Bob Brown, Anna Burke, Alan Cadman, Robert McClelland, Brendan O’Connor, Simon Crean, Michael Danby, Annette Ellis, Laurie Ferguson, Peter Garrett, Steve Georganas, Sharon Grierson, Michael Hatton, Chris Hayes, Gary Humphries, Annette Hurly, Julia Irwin, Michael Keenan, Linda Kirk, Kate Lundy, Claire Moore, Kerry Nettle, Julie Owens, Marise Payne, Bernie Ripoll, Nicola Roxon, Glenn Sterle, Lindsay Tanner, Concetta Fierravanti-Wells, Penny Wong.

5) Danh sách chưa đầy đủ các tù nhân lương tâm đang bị Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam giam giữ tại Việt Nam. (tính đến 31-03-2010, MLNQVN)

1) Ðoàn Văn Diên - sinh 1954, Hiệp Hội Ðoàn Kết Công Nông Việt Nam, bị bắt 5/11/2006, phiên tòa sơ thẩm Sài Gòn ngày 10-12-2007 kết án 4 năm 6 tháng tù giam. Hiện giam tại B5 Ðồng Nai.

2) Dương Thị Tròn - sinh 1947, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, Giáo Hội PGHHTT tỉnh Ðồng Tháp, bị bắt 2-10-2006, phiên tòa sơ thẩm Ðồng Tháp 03-05-2007 kết án 4 năm tù giam. Hiện giam tại B5 Ðồng Nai.

3) Hàng Tấn Phát �" sinh 1984, cư trú Sài Gòn, bị bắt 23-09-2005, phiên tòa sơ thẩm Sài Gòn 29-01-2008 kết án 6 năm tù giam. Hiện giam tại Trại Z30A Phân trại 2, Xã Xuân Trường, Huyện Xuân Lộc, Ðồng Nai.

4) Lê Công Ðịnh - sinh 1968, luật sư, Phó Chủ Nhiệm Luật Sư Ðoàn Sài Gòn 2005-2008, bị bắt 13-06-2009, phiên tòa sơ thẩm Sài Gòn 20-01-2010 kết án 5 năm tù giam + 3 năm quản chế. Nơi giam hiện nay: chưa rõ.

5) Lê Nguyên Sang - sinh 1959, bác sĩ, Ðảng Dân Chủ Nhân Dân, bị bắt 14-08-2006, phiên tòa phúc thẩm Sài Gòn 17-08-2007 kết án 4 năm tù giam. Hiện giam tại Trại Z30A Phân trại 2, Xã Xuân Trường, Huyện Xuân Lộc, Ðồng Nai.

6) Lê Thăng Long - sinh 1967, kỹ sư, bị bắt 14-06-2009, phiên tòa sơ thẩm Sài Gòn 20-01-2010 kết án 5 năm tù giam + 3 năm quản chế. Nơi giam hiện nay: chưa rõ.

7) Lê Văn Sóc - sinh 1956, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, Giáo Hội PGHHTT tỉnh Vĩnh Long, bị bắt 4-11-2006, phiên tòa sơ thẩm Ðồng Tháp 03-05-2007 kết án 6 năm tù giam.

8) Ngô Quỳnh - sinh 1984, sinh viên, Bắc Giang, bị bắt 1-10-2008, phiên tòa sơ thẩm Hải Phòng 09-10-2009 kết án 3 năm tù + 3 năm quản chế. Hiện giam tại Trại giam B14, Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội.

9) Nguyễn Bắc Truyển - sinh 1968, luật sư, Ðảng Dân Chủ Nhân Dân, bị bắt 14-08-2006, phiên tòa phúc thẩm Sài Gòn 17-08-2007 kết án 3 năm 6 tháng. Hiện giam tại Trại Z30A Phân trại 2, Xã Xuân Trường, Huyện Xuân Lộc, Ðồng Nai.

10) Nguyễn Bình Thành - sinh 1955, thợ điện, Ðảng Thăng Tiến VN, bị bắt 17-02-2007, phiên tòa sơ thẩm Huế 30-03-2007 kết án 5 năm tù giam + 2 năm quản chế. Hiện giam tại Trại tù Nam Hà.

11) Nguyễn Kim Nhàn - sinh 1949, Trưởng nhóm dân oan Bắc Giang, bị bắt 25-09-2008, phiên tòa sơ thẩm Hải Phòng 09-10-2009 kết án 2 năm tù + 2 năm quản chế. Hiện giam tại Trại giam B14, Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội.

12) Nguyễn Mạnh Sơn - sinh 1943, cán bộ nghỉ hưu, Hải Phòng, bị bắt 8-5-2009, phiên tòa sơ thẩm Hải Phòng 09-10-2009 kết án 3 năm rưỡi tù + 3 năm quản chế. Hiện giam tại Trại giam B14, Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội.

13) Nguyễn Phong - sinh 1975, Chủ tịch Ðảng Thăng Tiến VN, bị bắt 17-02-2007, phiên tòa sơ thẩm Huế 30-03-2007 kết án 6 năm tù giam + 3 năm quản chế. Hiện giam tại Trại tù Thanh Hóa.

14) Nguyễn Tiến Trung - sinh 1983, kỹ sư, Ðảng Dân Chủ VN, bị bắt 7-7-2009, phiên tòa sơ thẩm Sài Gòn 20-01-2010 kết án 7 năm tù giam + 3 năm quản chế. Nơi giam hiện nay: chưa rõ.

15) Nguyễn Văn Ðài - sinh 1969, luật sư, Chủ tịch sáng lập Uỷ Ban Nhân Quyền VN, bị bắt 6-3-2007, phiên tòa phúc thẩm Hà Nội 27-11-2007 kết án 4 năm tù giam + 4 năm quản chế. Hiện giam tại Trại tù K1, Xã Ba Sao, Huyện Kim Bảng, Thị xã Phủ Lý, Tỉnh Hà Nam.

16) Nguyễn Văn Hải (Blogger Ðiếu Cày) - sinh 1952, nhà báo, Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do, bị bắt 20-04-2008, phiên tòa sơ thẩm Sài Gòn 10-09-2008 kết án 2 năm 6 tháng tù giam. Hiện giam tại Nhà Tù Chí Hòa, Quận 10 - TP. HCM.

17) Nguyễn Văn Lý - sinh 1946, linh mục Công giáo, bị bắt 18-02-2007, phiên tòa sơ thẩm Huế 30-03-2007 kết án 8 năm tù giam + 5 năm quản chế. Sau 2 năm rưỡi tại nhà tù Ba Sao tỉnh Hà Nam, Linh mục Lý bị tai biến mạch máu não, được đưa vào bệnh viện điều trị, măc dù chưa bình phục, linh mục bị trả về lại nhà tù Ba Sao. Sức khỏe của linh mục hiện đang suy sút trầm trọng.

18) Nguyễn Văn Ngọc - sinh 1959, kinh doanh, Nhóm Người Việt Nam Yêu Nước, bị bắt 28-02-2007, phiên tòa sơ thẩm Sài Gòn 11-12-2007 kết án 4 năm tù giam + 3 năm quản chế.

19) Nguyễn Văn Thơ - sinh 1939, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, Giáo Hội PGHHTT tỉnh Ðồng Tháp, bị bắt 2-10-2006, phiên tòa sơ thẩm Ðồng Tháp 03-05-2007 kết án 6 năm tù giam.

20) Nguyễn Văn Thùy - tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, Giáo Hội PGHHTT tỉnh Vĩnh Long, bị bắt 22-04-2006, phiên tòa sơ thẩm Ðồng Tháp 03-05-2007 kết án 5 năm tù giam.

21) Nguyễn Văn Tính - sinh 1942, nhà báo, Báo Tổ Quốc, Hải Phòng, bị bắt 24-09-2008, phiên tòa sơ thẩm Hải Phòng 09-10-2009 kết án 3 năm rưỡi tù + 3 năm quản chế. Hiện giam tại Trại giam B14, Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội.

22) Nguyễn Văn Túc, sinh 1964, dân oan Thái Bình, bị bắt 10-9-2008, phiên tòa sơ thẩm Hải Phòng 09-10-2009 kết án 4 năm tù + 3 năm quản chế. Hiện giam tại Trại giam B14, Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội.

23) Nguyễn Xuân Nghĩa - sinh 1949, nhà văn, hội viên Hội Nhà Văn TP Hải Phòng, Ban điều hành khối 8406, bị bắt 10-9-2008, phiên tòa sơ thẩm Hải Phòng 09-10-2009 kết án 6 năm tù + 3 năm quản chế. Hiện giam tại Trại giam B14, Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội. 24) Phạm Bá Hải - sinh 1968, kinh doanh, Tổ Chức Bạch Ðằng Giang, bị bắt 7-9-2006, phiên tòa phúc thẩm Sài Gòn 08-08-2008 kết án 5 năm tù giam + 2 năm quản chế. Hiện giam tại Trại Z30A Phân trại 2, Xã Xuân Trường, Huyện Xuân Lộc, Ðồng Nai.

25) Phạm Thanh Nghiên - sinh 1977, Khối 8406, Hải Phòng, bị bắt 18-09-2008, phiên tòa sơ thẩm Hải Phòng 29-01-2010 kết án 4 năm tù giam + 3 năm quản chế. Hiện giam tại Trại giam B14, Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội.

26) Phạm Văn Trội - sinh 1972, kỹ sư, Uỷ Ban Nhân Quyền VN, bị bắt 10-9-2008, phiên tòa sơ thẩm Hà Nội 08-10-2009 kết án 4 năm tù + 4 năm quản chế. Hiện giam tại Trại giam B14, Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội.

27) Phùng Quang Quyền - sinh 1956, Ðảng Vì Dân, bị bắt lần thứ 3 ngày 30-8-2009, hiện giam tại Trại Tạm Giam B-34 Bộ Công An ở số 237 đường Nguyễn Văn Cừ, Quận 1, Tp. HCM. Chưa xét xử.

28) Trần Anh Kim - sinh 1949, cựu Trung Tá QÐNDVN, Ðảng Dân Chủ VN, bị bắt 7-7-2009, phiên tòa sơ thẩm tỉnh Thái Bình ngày 18-1-2010 kết án 5 năm rưỡi tù giam + 3 năm quản chế. Hiện giam tại Trại giam B14, Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội.

29) Trần Ðức Thạch - sinh 1952, nhà thơ, Nghệ An, bị bắt 10-9-2008, phiên tòa sơ thẩm Hà Nội 06-10-2009 kết án 3 năm tù + 3 năm quản chế. Hiện giam tại Hỏa Lò - xã Xuân Phương, Cầu Diễn - Hà Nội Việt Nam.

30) Trần Huỳnh Duy Thức - sinh 1966, kỹ sư, Tổng giám đốc Cty OCI, bị bắt 24-5-2009, phiên tòa sơ thẩm Sài Gòn 20-01-2010 kết án 16 năm tù giam + 5 năm quản chế. Nơi giam hiện nay: chưa rõ

31) Trần Khải Thanh Thủy - sinh 1960, nhà văn, bị bắt 10-8-2009, phiên tòa sơ thẩm Hà Nội 27-1-2010 kết án 3 năm rưỡi tù giam.

32) Trần Quốc Hiền - sinh 1965, luật sư, Hiệp Hội Ðoàn Kết Công Nông Việt Nam, bị bắt 12-1-2007, phiên tòa sơ thẩm Sài Gòn 15-05-2007 kết án 5 năm tù giam + 2 năm quản chế. Hiện giam tại Trại Z30A Phân trại 2, Xã Xuân Trường, Huyện Xuân Lộc, Ðồng Nai.

33) Trần Thị Lệ Hồng - sinh 1959, kinh doanh, Hiệp hội Ðoàn Kết Công Nông Việt Nam, bị bắt 15-11-2006, phiên tòa sơ thẩm Sài Gòn 10-12-2007 kết án 3 năm tù giam. Hiện giam tại B5 Ðồng Nai.

34) Trịnh Quốc Thảo - sinh 1956, kinh doanh, Nhóm Người Việt Nam Yêu Nước, bị bắt 28-02-2007, phiên tòa sơ thẩm Sài Gòn 11-12-2007 kết án 2 năm tù giam + 2 năm quản chế. Hiện đã mãn hạn tù, đang bị quản chế tại địa phương

35) Trương Minh Ðức - sinh 1960, nhà báo, Ðảng Vì Dân, Kiên Giang, bị bắt 5-5-2007, phiên tòa phúc thẩm Sài Gòn 18-07-2008 kết án 5 năm tù giam + 3 năm quản chế. Hiện giam tại Trại Z30A Phân trại 2, Xã Xuân Trường, Huyện Xuân Lộc, Ðồng Nai.

36) Trương Minh Nguyệt - sinh 1946, kỹ sư, Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo, bị bắt 4-6-2007, phiên tòa sơ thẩm Sài Gòn 11-12-2007 kết án 4 năm tù giam + 3 năm quản chế.

37) Trương Quốc Huy - sinh 1980, tham gia diễn đàn Paltalk, Sài Gòn, bị bắt 18-08-2006, phiên tòa sơ thẩm Sài Gòn 29-01-2008, kết án 6 năm tù giam. Hiện giam tại Trại Z30A Phân trại 2, Xã Xuân Trường, Huyện Xuân Lộc, Ðồng Nai.

38) Vũ Hùng - sinh 1966, giáo viên, Hà Tây, bị bắt 18-09-2008, phiên tòa sơ thẩm Hà Nội 07-10-2009 kết án 3 năm tù + 3 năm quản chế. Hiện giam tại Trại giam B14, Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội.

6- Danh sách các thành viên Khối 8406 được trao các Giải Nhân quyền của Việt Nam và quốc tế Giải Nhân quyền Việt Nam của Mạng Lưới Nhân quyền Việt Nam (Hoa Kỳ)

2002: Linh mục Nguyễn Văn Lý

2003: Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, Nhà báo Nguyễn Khắc Toàn.

2004: Cựu Ðại tá Phạm Quế Dương.

2005: Hội trưởng PGHH Thuần túy Lê Quang Liêm, Linh mục Phan Văn Lợi

2006: Kỹ sư Ðỗ Nam Hải, Giáo sư Nguyễn Chính Kết

2007: Giáo sư Hoàng Minh Chính, Luật sư Nguyễn Văn Ðài, Luật sư Lê Thị Công Nhân

2008: Thượng tọa Thích Thiện Minh, bán nguyệt san Tự do Ngôn Luận

2009: Mục sư Nguyễn Công Chính, nhà văn Trần Khải Thanh Thủy

Giải Homo Homini 2003 của Sáng hội Cứu Người Lâm Nạn (Tiệp)

Linh mục Nguyễn Văn Lý

Giải Shalom 2004 của Ðại học Công giáo Eichstätt-Ingolstadt (Ðức).

Linh mục Nguyễn Văn Lý

Giải Hellman-Hammett 2007 của Human Rights Watch (Hoa Kỳ)

Nguyễn Chính Kết, Phạm Quế Dương, Trần Khải Thanh Thuỷ, Nguyễn Khắc Toàn.

Giải Hellman-Hammett 2008 của Human Rights Watch (Hoa Kỳ)

Linh mục Nguyễn Văn Lý, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Xuân Nghĩa, Lê Thị Công Nhân,

Giải Hellman-Hammett 2009 của Human Rights Watch (Hoa Kỳ)

Thượng tọa Thích Thiện Minh, Phạm Thanh Nghiên, Trần Anh Kim, Vi Ðức Hồi

Giải Stephanus 2010 của Stephanus Foundatiton (Ðức)

Luật sư Lê Thị Công Nhân, luật sư Nguyễn Văn Ðài

 

Linh mục Nguyễn Văn Lý gặp Đại sứ Canada tại Việt Nam qua điện thoại

Bản tin ngày 06-04-2010
 
Ngày 30-03-2010, Bà Deanna Horton, Đại sứ Canada tại Việt Nam, từ Hà Nội, đã nói chuyện điện thoại bằng tiếng Pháp -qua trung gian một thông dịch viên- với Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý đang ở tại Nhà Chung, Tổng Giáo Phận Huế, 69 Phan Đình Phùng, thành phố Huế. (Các bản tin trước nói lộn thành 64. Chúng tôi chân thành cáo lỗi). Cuộc nói chuyện kéo dài từ 11g30 đến 12g25.
 
Mở đầu, bà đại sứ cho biết Chính phủ và Quốc hội Canada luôn quan tâm can thiệp cho các tù nhân lương tâm và đặc biệt cho linh mục Lý. Chính phủ và Quốc hội Canada muốn giúp Linh mục điều trị theo hướng tích cực nhất, nghĩa là bằng lòng tài trợ hoàn toàn và bảo đảm các thủ tục để đưa Linh mục ra ngoại quốc chữa bệnh. Chắc chắn Linh mục sẽ khỏi bởi vì những bệnh tương tự, Canada đã có kinh nghiệm chữa trị nhiều rồi, với phương tiện máy móc đầy đủ và với các loại thuốc dân tộc bản địa, chẳng cần dùng thuốc tây y. (Chú thích: Quốc hội và Chính phủ Canada sở dĩ lưu tâm đặc biệt đến vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, phần lớn cũng là nhờ cộng đồng người Việt tự do và các nhóm Yểm trợ Dân chủ của người Canada lẫn người Việt đang hoạt động rất tích cực tại Montreal, Toronto và Vancouver).
 
Như những lần trước với các tổ chức khác, Linh mục Lý ngỏ lời cảm ơn Bà Đại sứ và cho biết rằng việc ra đi như vậy nằm trong kế hoạch của nhà cầm quyền Việt Nam. Họ sẽ trì hoãn việc cho Linh mục trở về nước, nghĩa là đợi cho đến khi Lm đến tuổi thật cao, khoảng 80 tuổi!?! Bà Đại sứ cười, tỏ ra hiểu chuyện. Bà đưa ra phương án thứ hai: Nếu Lm không bằng lòng đi thì sẽ có một phái đoàn bác sĩ, chuyên viên cùng với các dụng cụ tối tân sẽ đến tại Nhà Chung để điều trị. Phái đoàn này tháng 7 sẽ qua Việt Nam, và hy vọng có chuyên môn đủ để chữa lành linh mục.
 
Sau khi cảm ơn về nhã ý của Chính phủ, Quốc hội và Bà Đại sứ Canada, linh mục nói tiếp: Điều tôi cần nhất hiện nay là điều trị các khối u trong đầu óc của toàn dân Việt Nam. Gồm có 4 việc cấp bách như sau:
 
- Thứ nhất, xin Quốc hội và Chính phủ Canada vận động với nhà cầm quyền Việt Nam và các cơ quan ngôn luận quốc tế để nhà cầm quyền Việt Nam sớm thả các tù nhân lương tâm mà họ đã bắt giữ trong các năm qua, nhất là từ 2007 tới giờ. Trong đó đặc biệt có anh Nguyễn Phong và anh Nguyễn Bình Thành là hai người (ct: cùng vụ với Lm Lý) mà cho tới nay vẫn phủ nhận phiên tòa phi pháp và bản án bất công ngày 30-03-2007 nên vẫn tiếp tục bị biệt giam, một người tại Thanh Hóa, một người tại Đồng Nai. Ngoài ra còn có luật sư Nguyễn Văn Đài bị bắt từ 2007 và đang bị giam giữ tại trại tù Nam Hà (ct: tức trại Ba Sao, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, cùng chỗ với Lm Lý). Rồi gần đây là khá nhiều chiến sĩ dân chủ hòa bình khác, tất cả cũng độ 20 chục. Bà Đại sứ trả lời: Chính phủ và Quốc hội Canada đã luôn quan tâm đến chuyện này và không ngừng can thiệp với nhà cầm quyền Việt Nam, rồi bà hứa sẽ tiếp tục vận động mạnh mẽ hơn nữa.
 
- Thứ hai, xin Chính phủ và Quốc hội Canada can thiệp để toàn dân Việt Nam sớm có tự do ngôn luận. Về điều này, phải nói thẳng là rất nhiều ngoại giao đoàn thường xử sự kiểu ngoại giao, nghĩa là nhập nhằng, không rõ ràng, không quyết liệt khẳng định rằng nhân dân Việt Nam chưa có tự do ngôn luận, không mạnh dạn can thiệp vào các vụ vi phạm trầm trọng quyền này tại Việt Nam, khiến nỗi đau khổ của toàn dân Việt Nam vẫn cứ kéo dài. Chúng tôi, các nhà đấu tranh, thiếu phương tiện để nói lên điều này với quốc tế, thì xin Quý vị hãy nói dùm, hãy mạnh dạn chứng minh vắn gọn, rõ ràng với thế giới rằng tự do ngôn luận tại Việt Nam còn thua thời Karl Marx ở Luân Đôn cách đây 170 năm! Trước 1975, ở miền Nam, chúng tôi có báo tư nhân, có đài phát thanh, có đài truyền hình (của các tập thể lẫn các tôn giáo). Bây giờ ngay cả báo chí thì cũng chẳng có tờ nào! Khi vì ngoại giao mà lấp lửng chuyện này, thì các chính khách quốc tế đã vô tình làm chứng cho sự dối trá thay vì làm chứng cho sự thật, tiếp tục gây đau khổ cho nhân dân chúng tôi.
 
- Thứ ba, xin Chính phủ và Quốc hội Canada giúp phơi bày sự thật về ông Hồ Chí Minh. Quý vị đều biết rõ bộ mặt của nhân vật này nhưng vì cứ mãi kéo dài sự lập lờ trước quốc tế, khiến cho nhà cầm quyền Việt Nam được thể duy trì huyền thoại dối trá đó, đầu độc tâm trí giới trẻ, gây tai hại vô vàn cho nhân dân nước Việt.
 
- Thứ tư, xin Chính phủ và Quốc hội Canada giúp phong trào đấu tranh trong nước, đặc biệt Khối 8406 chúng tôi, tẩy chay cuộc bầu cử quốc hội giả tạo năm 2011 tới. (Nói chung, linh mục Lý cũng trình bày cho Bà Đại sứ Canada y như cho bà phó đại sứ Hoa Kỳ Virginia E. Palmer hôm 23-03-2010).
 
Bà Đại sứ ghi nhận tất cả và hứa sẽ tiếp tục can thiệp giúp các nhà tranh đấu, các chiến sĩ hòa bình dân chủ; còn những mục tiêu đấu tranh cụ thể (đặc biệt của Khối 8406) thì bà nói sẽ trình bày lên Quốc hội và Chính phủ Canada để họ ủng hộ. Thấy thái độ cởi mở, biết lắng nghe của Bà Đại sứ, Linh mục Lý tranh thủ nói thêm:
 
Khối 8406 chúng tôi đang chuyển lối đấu tranh từ thế chịu đàn áp, đối phó, đỡ gạt sang thế chủ động chinh phục đối phương bằng con đường đạo đức. Chúng tôi cố gắng đào tạo một lớp chiến sĩ hòa bình đầy nhân bản, văn hóa, đạo đức, lịch sự, hiếu hòa, nhưng nhất định không thỏa hiệp. Chúng tôi tiếp tục phát động phong trào "Toàn dân mặc áo trắng đòi dân chủ cho Việt Nam vào ngày 01 và 15 mỗi tháng". Xin quý chính khách quốc tế quan tâm ủng hộ chiến dịch này.
 
Bà Đại sứ nói: Vâng, chúng tôi sẽ cố gắng nghe theo lời Linh mục và sẽ có thái độ dứt khoát, rõ ràng hơn. Nhưng chúng tôi cũng hết sức để tránh bị chụp mũ là "can thiệp vào nội bộ Việt Nam". Lm Lý liền trả lời:
 
Quan niệm "can thiệp nội bộ" của Nhà cầm quyền Việt Nam thì xin Bà hiểu như sau: Nhà cầm quyền Việt Nam khi muốn xía vào chuyện nội bộ của nước nào (như tại Campuchia trước đây) thì nói đấy là "nghĩa vụ quốc tế cao cả"! Nhưng khi muốn phủi tay không can thiệp hay muốn tránh né không phê bình (như đối với Myanmar hiện giờ) thì lại nói rằng họ tôn trọng chuyện nội bộ của nước khác. Đó là lập luận có tính cách gian trá, thiếu sòng phẳng của nhà cầm quyền Hà Nội. Riêng lập trường của chúng tôi thì xin thưa với Bà Đại sứ như sau: Hiện nay, quả đất càng ngày càng thu nhỏ và nhân loại nên như một gia đình, vì chúng ta liên lạc quan hệ với nhau một cách dễ dàng, chặt chẽ và mật thiết hơn. Hầu như tất cả mọi giá trị đều được toàn cầu hóa, nhất là các giá trị của văn minh, của nhân quyền. Vì thế, các quốc gia dân chủ đều chỉ ưa quan hệ với một nhà nước văn minh tôn trọng nhân quyền. Việt Nam muốn hội nhập vào xã hội tiến bộ của loài người, muốn đi họp Liên Hiệp Quốc, muốn thiết lập bang giao với các nước thì phải có một mặt bằng tiêu chuẩn về văn minh, về nhân quyền như họ. Nhưng đang khi muốn làm tất cả những chuyện ấy càng nhiều càng tốt mà Việt Nam lại cứ khăng khăng nói "việc nội bộ của chúng tôi" khi bị chất vấn về nhân quyền dân chủ, bị tố cáo đàn áp nhân dân đồng bào, thì xin Quý vị hãy nói với nhà cầm quyền Hà Nội rằng: nếu ưa dùng chiêu bài "chớ can thiệp chuyện nội bộ" thì Việt Nam đừng tiếp xúc với quốc tế, đừng dự họp LHQ, đừng cử phái bộ ngoại giao đi các nước, đừng tham gia các hội nghị toàn cầu! Một chính phủ muốn hội nhập với năm châu, muốn thiếp lập quan hệ ngoại giao rộng rãi, muốn nhận được sự giúp đỡ của nhiều nước mà lại cứ sợ người ta "can thiệp vào chuyện nội bộ", thì như vậy có nghĩa là quyền lợi luôn mong hưởng thụ mà trách nhiệm lại chuyên khước từ. Quả là vô lý! Về chuyện này, xin Quý vị nắm vững nguyên tắc: Việt Nam muốn nhờ sự giúp đỡ của quốc tế, muốn quan hệ với năm châu thì phải theo tiêu chuẩn mặt bằng nhân quyền của loài người. Các nhân quyền này, những Công ước Quốc tế đã nói rất rõ, nhưng các chính phủ độc tài lúc nào cũng tìm cách định nghĩa lại tiêu chuẩn độc đoán của họ. Vậy Quý vị đừng sợ rằng các nhà nước đó trách móc Quý vị can thiệp nội bộ, trái lại hãy nói thẳng với họ rằng chúng tôi chỉ muốn quan hệ với những nhà nước văn minh thôi, chúng tôi chỉ muốn giúp đỡ những nhà nước bằng lòng cho người dân được hưởng những nhân quyền cơ bản, chúng tôi có quyền chất vấn và đòi hỏi về nhân quyền dân chủ với các nhà nước có quan hệ ngoại giao, thương mại, văn hóa… với chúng tôi. Xin nói thẳng với Việt Nam như thế, chớ ngại ngùng gì!
 
Bà Đại sứ nói: Tôi xin tiếp thu ý kiến của Linh mục và chúng tôi hứa sẽ cố gắng hết sức để đạt được những sự việc cụ thể như Linh mục yêu cầu. Xin cảm ơn.
 
Nhóm Phóng viên FNA Khối 8406 tường trình từ Huế
22g30 ngày 06-04-2010
 

 

 

Kẻ ác rồi sẽ bị diệt vong

(Tường trình cuộc thăm viếng gia đình một số nhà dân chủ)
Quỳnh Trâm, ngày 02-04-2010

Gần một tháng nay, kể từ khi bị bạo quyền Việt cộng đột nhập cướp tài sản, không có Kinh thánh cũng chẳng có laptop, thông tin đến với mình thật là khan hiếm, ở nhà xem tivi cứ mỗi Tháng 04 đen là các con vẹt lại tuyên truyền nham nhở về chiến thắng của Việt cộng, quá buồn chán nên tôi quyết định làm cuộc hành trình ngắn.
17g ngày 02-04-2010, tôi cùng mẹ leo lên xe bus đi Đồng Nai. Trạm dừng chân đầu tiên là Long Khánh. Mục sư Thân Văn Trường cùng Phu nhân đón tiếp tôi bên mâm cơm đạm bạc chân tình. Đêm ấy tôi cùng mẹ nghỉ lại nhà ông bà Mục sư. Phu nhân Mục sư Trường là một phụ nữ nhân từ nề nếp, bà lúc nào cũng là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho chồng con và cho cả bầy chiên của Chúa trong Hội Thánh.

Như con chim sổ lồng một lần đi là một lần khó, nên có đi thì cứ đi lần một. Sáng hôm sau tôi để mẹ ở lại tâm sự cùng bà Mục sư, còn Mục sư Trường làm hướng dẫn viên đưa tôi đi xã Định Quán, ngược về 50 cây số, đến thăm chị Hồ Thị Thương, vợ anh Đoàn Văn Diên, một nhà bất đồng chính kiến với Cộng sản Việt Nam. Trên đường đi gặp rất nhiều công an giao thông, bị họ phạt 100.000 ngàn đồng mà chẳng biết lí do phạt là gì. Hôm nay gặp lại chị Thương, thấy khác với trước rất nhiều: tiều tụy ốm yếu, hình dáng khắc khổ, tôi không khỏi nao lòng.

Tôi và Mục sư ngồi bên cốc trà đá chị mời, trong ngôi nhà sơ sài, với nền nhà nứt nẻ vì nắng, với mái nhà lợp được mấy năm trước do chị Bùi Tiên giúp đỡ. Tôi trách chị sao lâu nay không liên lạc với tôi. Chị nói là do mất địa chỉ, và kể từ khi thôi liên lạc với tôi, chị cũng không biết liên lạc với ai nữa. Chị lại bị khối u buồng trứng phải đi mổ, phải thăm nuôi chồng ở tù mà không có tiền nên đành bán luôn cả chiếc điện thoại, trong nhà có gì bán đó lấy tiền thăm chồng.

Chị cho biết hiện tại công an B34 là nơi giam giữ Đoàn Huy Chương (Nguyễn Tấn Hoành) và em trai của Chương, hai con trai của chị, cùng với cô Nguyễn Thị Mỹ Hạnh. Tôi cho chị biết cháu Mỹ Hạnh kia là con gái nuôi của cụ Lê Quang Liêm, Hội trưởng Phật giáo Hòa Hảo Thuần túy. Bây giờ họ còn gây khó khăn cho cả Đoàn Triệu Kha, con út của chị.

Rời khỏi ngôi nhà cháy nắng, đến lượt chị Thương làm hướng dẫn viên cho Mục sư và tôi. Đi vài trăm mét là đến nhà anh Nguyễn Ngọc Quang, một nhà bất đồng chính kiến được thả tù hôm 03-09-2009. Từ ngày 01-12-2009, anh bị Việt cộng gây khó khăn, ép buộc phải rời phường 6, quận 8 Sài Gòn để về Định Quán hầu tiện quản chế.

Từ trái sang phải: chị Thương, cô Trâm, con gái anh Quang, vợ anh Quang, mẹ anh Quang, anh Quang, Mục sư Trường.


Mấy tháng rồi mới gặp lại, trông anh già đi rất nhiều, tóc bạc trắng. Vợ và hai con của anh thì đen và ốm hơn so với lúc ở Sài Gòn. Về Định Quán anh sống chung với mẹ già đã gần 80 tuổi. Mẹ anh ban đầu rất sợ hãi vì tưởng chúng tôi đến bắt con bà đi lần nữa. Sau khi được anh Quang trấn an, bà kể chồng bà bị Việt cộng nó giết chết, con bà mới được rời khỏi nhà tù nhỏ, nên bây giờ có người lạ đến đây là bà sợ họ bắt con của bà mang đi. Ngôi nhà đơn sơ nhưng ngăn nắp nhờ bàn tay chị Trang sắp xếp.

Thiếu nước sinh hoạt, gia đình anh chị phải mua lại nước của tư nhân, hai khối nước là 50.000đ. Ai có tiền thì đào giếng, ai không tiền đào giếng phải mua nước như thế mới có để mà sử dụng. Người dân quanh vùng cuộc sống đều khó khăn chứ không riêng gì gia đình anh chị. Mùa nầy họ thiếu nước sinh hoạt, có đào giếng sâu đến mấy cũng ít có nước để dùng. Đồng Nai là một tỉnh tương đối khá rộng, cách thành phố Sài Gòn không bao xa, "đang phát triển mạnh" theo lời những con vẹt trên đài phát thanh tuyên truyền, vậy mà người dân quanh đây phải sống trong tình cảnh khan hiếm thiếu hụt nước như vậy.

Chia tay gia đình anh Quang, chúng tôi trở về. Mục sư Trường tiễn tôi ra trạm xe bus. Khi xe chạy ngang qua ngã ba Trị An, tôi xuống xe và đón thêm chuyến nữa vào thị trấn Vĩnh Cửu, đến thăm nữ anh thư Lê Thị Kim Thu. Tôi tìm gặp chị không khó khăn lắm. Nhắc đến chị, chắc hẳn chúng ta không thể quên đó là một phụ nữ can đảm phi thường. Dáng người nhỏ nhắn, gương mặt hiền từ thân thiện, giọng nói trong trẻo dễ nghe, chị là người có nhiều ưu tư trăn trở về dân chủ. Tuy không phải là ngòi bút văn chương sắc sảo, chị lại là người thích hành động, chuyên đấu tranh cho dân oan ngay tại thủ đô Hà Nội. Tôi hết sức khâm phục chị. Rất vui vì được tôi đến thăm, chị kể cho tôi nghe nhiều về đoạn trường lao tù của mình (chị bị bắt cóc ngày 18-08-2008 và được thả ngày 14-11-2009). Ngày ra tòa không có ai biết, phiên xét xử cũng không được công khai, phải tự mình làm luật sư bào chữa cho mình. Họ dùng đủ mọi cách ghép tội chị nhận tiền tổ chức phản động nước ngoài, nhưng cuối cùng không có bằng chứng ghép tội. Bản án mà phiên tòa dành cho chị là bản án thái độ, một trong những bản án nực cười nhất từ trước đến nay! Trong tù chị bị hành hạ rất khốn khổ. Ngày rời khỏi nhà tù nhỏ, chị còn bị thủ tục cuối cùng của Việt cộng trại giam là khám xét người. Họ bắt chị cởi bỏ lại cả cái quần lót đang mặc trên người (vì trên đó có ghi nhiều số điện thoại và địa chỉ thân nhân bạn tù) rồi mới cho chị rời trại giam. Chúng ta sẽ được nghe chị bạch hóa nhiều chuyện ly kỳ qua Hồi ký trong tù của chị.

Chúng tôi gặp nhau trong ngôi nhà mới xây của chị, ngôi nhà cấp bốn tạm bợ đủ để hai mẹ con trú thân. Mẹ chị người gầy ốm, nhưng rất mạnh mẽ tinh thần, lúc nào cũng ủng hộ việc làm của cô con gái. Cũng như anh Quang, chị là người con hiếu thảo với mẹ. Trao đổi khá lâu, tôi chia tay chị trong sự lưu luyến. Tôi biết chị đã làm xong cái phần của mình, như lời anh thư Lê Thị Công Nhân vừa nói: "Tôi đã làm được cái phần của tôi, tôi chưa làm được cái phần của 90 triệu người Việt", một câu nói như nhắc nhở cho chúng ta tất cả.

Phong trào dân chủ đang trên đà phát triển hết sức tốt đẹp, được sự ủng hộ của đồng bào trong và ngoài nước, được các tổ chức nhân quyền cũng như chính phủ các nước tự do trên toàn thế giới quan tâm và hỗ trợ.
Thế nhưng khi bắt bớ giam cầm các anh chị em dân chủ, những người bất đồng chính kiến, nhà cầm quyền Việt Cộng thường buộc tội họ là phản động, nhận tiền các tổ chức nước ngoài, xách động đồng bào, lật đổ nhà nước!
Vậy năm 1945 Hồ chí Minh kêu gọi thành lập Chính phủ liên hiệp đa nguyên đa đảng, cùng với các ông Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam, Giám mục Lê Hữu Từ, Phạm Hữu Chương cùng nhiều vị khác nữa, vậy HCM có phản động không ?

HCM nhận tiền của những đảng viên đảng Xã hội Pháp có cả người Pháp lẫn người Việt để sinh sống và để đến nước Nga, rồi tại nước Nga thì nhận tiền của đảng Bôn-sê-vích thì có phải là phản động không?
HCM được Stalin nuôi ăn học nhiều năm, Stalin lại bị ông Cút-Xếp, ông Góc-Ba-Chốp, ông En-Xin, ông Pu-Tin gọi là tên tội đồ dân tộc, tên diệt chủng có tội ác với nhân loại. Mà HCM và đảng CSVN nhận tài trợ từ Stalin, vậy có phải là tội đồ dân tộc không?

HCM và đảng Việt Cộng nuôi và cung cấp vũ khí cho bọn Pol Pot, Khơ-Me đỏ để chúng giết hàng trăm ngàn đồng bào Việt Nam, hàng triệu người Miên. Vậy có phải là tội ác không?

Nếu các nhà đấu tranh dân chủ vì đòi đa nguyên đa đảng mà bị kết tội là phản động, thì trước hết phải kết tội HCM, vì HCM cũng kêu gọi nguyên đa đảng. Thật ra HCM là một tên phản động có tội ác với nhân loại và dân tộc, phải bị lên án đời đời.

Nguyễn Thu Trâm, Bình Dương
(Bns TDNL biên tập lại)


This page is powered by Blogger. Isn't yours?

Tin Việt Nam

(freevietnews.com)