Friday, July 31, 2009

 

Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu, Nghệ An, 1956

Cẩm Ninh

Năm 1956, cuộc nổi dậy của đồng bào huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, là 1 cuộc đấu tranh đẫm máu chống lại chính sách cai trị dã man của lãnh đạo CSVN, mà qua đó, chính sách Cải Cách Ruộng Ðất đã là nguyên nhân chính làm bùng nổ cơn phẫn nộ của người dân. Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu bị đảng CSVN bưng bít tin tức rất kỹ vì tầm mức ảnh hưởng nguy hiểm của nó; trong khi cuộc đấu tranh của các văn nghệ sĩ trong biến cố Nhân Văn Giai Phẩm may mắn hơn, được loan tin vào miền Nam VN thời bấy giờ, với những tư liệu lịch sử rất giá trị.

Nhưng không vì thế mà cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu bị chôn vùi với nỗi oan khiên của những nạn nhân đã chết. Một số nhân chứng hiếm hoi đã kể lại, viết lại để các thế hệ tiếp nối hiểu được những gì xảy ra dưới chế độ XHCN. Tội ác của lãnh đạo CSVN không thể đếm băng số người dân đã chết. Tầm mức [mục đích] của tội ác đã đi ra khỏi giới hạn suy nghĩ của loài ngườị.

1. Chính sách Cải cách Ruộng đất :

Lãnh đạo CSVN đã bắt đầu cuộc cải tạo nông nghiệp tại miền Bắc khi thực dân Pháp vẫn còn xâm chiếm nước ta. Hồ Chí Minh đã ký 2 Sắc luật Giảm Tô (tức giảm số thóc gạo mà nông dân phải trả cho người chủ đất) số 78/SL ngày 14-7-1949, và Sắc luật 42/SL ngày 1-7-1951 về chính sách nông nghiệp của chính quyền kháng chiến, nằm trong toàn bộ chính sách thuế khóa, gồm cả thuế công thương nghiệp, sát sinh, lâm thổ sản, xuất nhập cảng... Chính sách thuế nông nghiệp đã khởi đầu cho các chiến dịch phân mảnh định hàng các loại ruộng, bình sản lượng, bình diện tích mỗi mảng đất để làm căn bản tính thuế, sau đó tiến hành chiến dịch chống phản động, đấu tranh giảm tô kéo dài đến năm 1954, và chỉ tạm ngưng khi chiến trường Ðiện Biên Phủ bắt đầu nghiêm trọng và sau đó đưa đến Hiệp định Geneva ký vào tháng 7-1954. Kế đến, lãnh đạo CSVN lại tạm ngưng chiến dịch Cải cách ruộng đất tới cuối năm 1955, đầu 1956, vì (1) CSVN bận lo đón tiếp hơn 50.000 bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc, (2) phải đối phó với phong trào di cư và cuộc biểu tình đòi di cư của người dân vùng Ba Làng (Thanh Hóa) (3). Phải che giấu phần nào thủ đoạn tàn bạo để trấn an lòng dân, che mắt các quan sát viên quốc tế của Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến và ổn định tình hình nội bộ.

Giai đoạn thứ hai của Cải cách ruộng đất bắt đầu từ cuối năm 1955, lãnh đạo CSVN tiếp tục phát động phong trào quần chúng qua nhiều đợt đấu tranh cải cách ruộng đất. Trong giai đoạn này, hình thức đấu tranh cải cách ruộng đất cũng giống như đấu tranh giảm tô, nhưng khác ở mức độ tàn bạo cao hơn gấp bội và số nạn nhân cũng gia tăng do sự càn đi, quét lại và kích tỷ lệ. Ở một số nơi như các vùng vừa tiếp thu và đồng bằng bên bờ sông Nhị Hà chẳng hạn, CSVN tiến hành song song 2 chiến dịch Đấu tranh giảm tô và Cải cách ruộng đất một lượt. Ðiều cần nhấn mạnh là CSVN đã bắt chước y hệt chính sách Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc, nên đã cho các cán bộ học tập kinh nghiệm nguyên văn cuộc Cải cách ruộng đất đẫm máu ở Hồ Nam, quê hương của Mao Trạch Ðông. Ở Trung Quốc, ngoài ruộng đồng bao la bát ngát, một địa chủ điển hình còn có lâu đài, dinh cơ và quân lính riêng để bảo vệ sản nghiệp, cũng như để đàn áp và bóc lột nông dân. Trong khi ở miền Bắc VN, cái mà CSVN gọi là địa chủ đại gian đại ác thường chỉ có mấy mẫu ruộng, nhưng thuộc thành phần có uy tín ở nông thôn (thường giúp đỡ người nghèo) và có thể trở thành đối tượng chống đối đảng và nhà nước.

Trung ương đảng CSVN đã trao cuộc đấu tranh Cải cách ruộng đất cho Trường Chinh lãnh đạo và Hồ Viết Thắng, Ủy viên Trung ương đảng, phụ trách điều hành. Dưới trung ương có các đoàn cải cách ruộng đất cho mỗi tỉnh và dưới cấp đoàn có các đội cải cách ruộng đất cho từng xã. Các đoàn và đội đều nhận lệnh trực tiếp từ trung ương mà không cần qua ủy ban hành chánh địa phương. Thành phần trong các đoàn, đội được tuyển lựa đều là thành phần cốt cán, bần cố nông, là đảng viên trung kiên đã chiến đấu trong bộ đội. Càng về sau, chính sách cải cách ruộng đất càng khốc liệt bởi phần đông đội viên toàn là những người trẻ tuổi, cuồng tín, được bồi dưỡng tư tưởng đấu tranh giai cấp, căm thù thật sự. Vì thế, trong năm 1956, riêng đợt cải cách ruộng đất Ðiện Biên Phủ đã đưa số nạn nhân bị tàn sát lên đến 10.000 người. Ðội cải cách ruộng đất đã trở thành công cụ giết người ghê rợn của chế độ. Sự tàn sát lên cao vì chính sách kích tỷ lệ (nâng tỷ lệ) của CSVN. Thí dụ : cứ mỗi xã có 100 gia đình thì dù đủ hay không, có hay không có, đội cải cách ruộng đất của xã đó phải tìm cho ra ít nhất là 5 gia đình địa chủ (tỷ lệ 5%), nếu hơn thì càng tốt. Trong 5 gia đình này phải quy cho được 2 gia đình là cường hào ác bá để xử tử. Nếu đội không làm đủ tiêu chuẩn sẽ bị phê bình là thiếu ý thức đấu tranh giai cấp, công tác kém cỏi. Nghe 1 đoạn thơ tuyên truyền của thi sĩ Tố Hữu, ta sẽ thấy sự dã man ra sao:

Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,

Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,

Cho Ðảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,

Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt.

Mục tiêu cuộc Cải cách ruộng đất còn là cơ hội để đảng CSVN mở cuộc thanh trừng quy mô những đảng viên trong nội bộ hoặc trong hàng ngũ kháng chiến cần bị đào thải vì không thuộc thành phần vô sản, những người có thể trở thành nguy hiểm cho đảng vì đã trau giồi những kinh nghiệm đấu tranh, đã có khả năng lãnh đạo, có uy tín, nắm vững tình hình đảng, quy tụ được thế lực mạnh, và có thể phản đảng. Chính CSVN đã thú nhận khi có chính sách sửa sai, trong cuộc thanh trừng này có đến 23.000 đảng viên trung kiên bị chết oan; còn hàng ngàn đảng viên không trung kiên bị chết một cách đích đáng thì chưa thấy tài liệu nào của đảng công bố cả. Rất nhiều cán bộ cao cấp có công với kháng chiến cũng bị kết tội cường hào ác bá, hoặc tham gia trong các tổ chức phản động như VN Quốc Dân Ðảng chẳng hạn. Theo hồi chánh viên Nguyễn Văn Thân, kỹ sư thuộc Bộ Thủy Lợi miền Bắc, trước kia đã từng tham gia nhiều vụ Cải cách ruộng đất, cho biết 1 cuộc đấu tố chụp mũ như sau :

"...Cuộc đấu tố điển hình nhất mà tôi được dự là lần đấu tố ông Nguyễn Văn Ðô, Bí thư huyện ủy tại Ô Cầu Giấy, ngoại thành Hà Nội. Nạn nhân Nguyễn Văn Ðô là Bí thư huyện ủy, rất có công với kháng chiến nhưng lại bị kết tội là cường hào ác bá và có chân trong tổ chức Quốc Dân Ðảng. Chủ tịch đoàn nói rằng ông lợi dụng chức vụ của Ðảng để hoạt động cho Quốc Dân Ðảng. Người đứng kể tội là 1 nông dân trước kia đi chăn ngựa cho ông Ðộ. Một cụ già khác lên tố về việc cướp đất ruộng nương và cô con cái của ông lên đấu tố là đã bị ông cưỡng hiếp tất cả 177 lần. Ðến khi ông Ðô được phép lên phát biểu ý kiến nhận tội, ông đã cứng cỏi trả lời : Ông không phải là Quốc Dân Ðảng, ông chỉ làm việc cho Bác, cho kháng chiến mà thôi. Ông trả lời cô con gái là : "Thưa bà, bà còn quên đấy, tôi đã hiếp cả mẹ bà để đẻ ra bà nữa". Câu trả lời này làm mọi người phải bật cười và làm đấu trường mất vẻ tôn nghiêm. Chủ tịch đoàn vội vàng hô khẩu hiệu "Ðả đảo tên Ðô ngoan cố" để đàn áp và che lấp tiếng nói của ông. Sau đó họ không cho ông nói tiếp. Họ nghị án và quyết định xử tử ông ngay tại chỗ. Cuộc đấu tố này kéo dài từ 5g sáng tới 13g trưa mới xong".

Rất nhiều người thuộc thành phần trung nông (trung nông cấp thấp : vài sào (acre) đất; trung nông cấp cao : 1-3 sào và 1 con trâu), tiểu thương cũng bị kích lên thành địa chủ (địa chủ thường : 3-5 sào hay có khi hơn một chút, không giàu, cho mướn ruộng lấy địa tô, không có tội với nhân dân; địa chủ cường hào ác bá : 3-5 sào, có tội với nhân dân; địa chủ phản động : đảng viên VN Quốc Dân Ðảng, Ðại Việt v.v...). Với dân số miền Bắc vào năm 1956 là khoảng 20 triệu người, có khoảng 4 triệu gia đình nông dân. Nếu chỉ có 2% gia đình nông dân bị liệt vào giai cấp cường hào địa chủ, thì số người bị giết ít nhất là 80.000 người. Chưa kể số người chết tăng lên qua chính sách kích tỷ lệ theo đúng chỉ tiêu do đảng CSVN đề ra. Sự oán hận của người dân ngày càng dâng cao ở khắp nơi. Nhiều vụ phục kích giết cán bộ đấu tố và những vụ chém giết giữa bần cố nông và thân nhân của người bị đấu tố đã xảy ra thường xuyên. Ngay lúc đó, nhiều biến cố chính trị đã xảy ra tại các nước CS như Liên Xô, Trung Quốc, Ba Lan, Hung Gia Lợi. Liên Xô yêu cầu Hồ Chí Minh thực hiện việc xét lại. Hồ Chí Minh chuẩn bị kế hoạch ngừng chiến dịch đấu tố vào tháng 3-1956, nhưng chính thức ra lịnh đình chỉ mọi vụ hành quyết địa chủ vào tháng 10-1956. Trong Hội nghị thứ 10 Trung ương đảng, Võ Nguyên Giáp đã thay mặt đảng đọc một bản thú nhận sai lầm trong cuộc Cải cách ruộng đất. Hồ Chí Minh khóc lóc và đổ cho cấp dưới thi hành chính sách quá đà, cách chức Thứ trưởng phụ trách Cải cách ruộng đất là Hồ Viết Thắng để xoa dịu lòng dân. Ðảng CSVN cũng thả 12.000 đảng viên còn sống sót trong tù vì bị kết tội địa chủ, trong số này nhiều người bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành.

Tuy nhiên oán thù của người dân không vì thế mà nguôi ngoai. Nhiều vụ nổi dậy, bạo động lớn nhỏ đã xảy ra sau đó, như Quỳnh Lưu (Nghệ An), Hải Phòng, Lạng Sơn... Trong thời gian này cũng có những vụ bạo động khác như những vụ thanh niên và công nhân Nam Bộ tập kết đập phá bót cảnh sát ở bờ hồ Hà Nội (cạnh ga tàu điện, đầu phố Cầu Gỗ).

2. Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu :

Sau cái gọi là Nghị quyết sửa sai của đảng CSVN về những đợt Cải cách ruộng đất đẫm máu, các nạn nhân đã tìm những cán bộ thanh toán món nợ truyền kiếp. Các đảng viên CS trung kiên được thả về từ nhà tù, được khôi phục quyền hành, khôi phục đảng tịch, liền tìm ngay các đồng chí đã tố sai để trả thù. Do đó, tình trạng xung đột, giết chóc giữa đảng viên cũ và đảng viên mới lan rộng khắp mọi nơi. Uy tín của đảng bị sụp đổ, cán bộ hoang man, lo sợ tột độ.

Ở nông thôn, các đảng viên đi họp phải mang búa theo để thảo luận với nhau. Những địa chủ được tha về, thấy tình trạng làng xóm bất ổn như vậy, vội vàng chạy ra thành phố ở nhờ các gia đình tiểu tư sản hồi kháng chiến đã trú ngụ ở nhà mình. Các bần cố nông trót nghe lời đảng tố điêu nay sợ bị rạch mồm, cắt lưỡi, cũng vội vàng chạy ra thành phố để đạp xích lô và đi ở thuê. Vì vậy, số dân ở Hà Nội, Nam Ðịnh đột nhiên tăng lên gấp bội và không khí căm thù ở nông thôn lan ra thành phố, ảnh hưởng đến giới công nhân, tiểu tư sản, sinh viên và trí thức, dùng báo chí lên tiếng chống đảng, thì cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu đã làm đảng CSVN rất lo sợ.

Toàn thể nhân dân tỉnh Nghệ An, gồm đủ mọi thành phần giai cấp ở các xã Quang Trung, Tân Nho, Diễn Tân, Vạn Kim, Diễn Ðức, Diễn Ðông, Diễn Nguyên, Minh Châu, Ðức Vinh, Hồng Thăng, Ðại Gia, Yên Trung đã mở 1 đại hội để tố cáo những chính sách cai trị tàn ác của chế độ. Ban tổ chức đại hội còn mời luôn cả cán bộ VC thuộc cấp tỉnh và huyện đến tham dự để chứng minh tinh thần đấu tranh cho tự do của nhân dân. Sau nhiều giờ thảo luận, đại hội đã đồng thanh lập bản kiến nghị nguyên văn như sau :

- Yêu cầu trả lại cho chúng tôi những vị linh mục chánh sở và tất cả những vị giáo sĩ bị bắt bớ giam cầm,

- Yêu cầu trả lại cho chúng tôi xác các vị linh mục đã bị hành quyết và của những vị đã bị thủ tiêu,

- Yêu cầu trả lại những tài sản của địa phận, của thánh đường, của Ðức Mẹ đã bị chính quyền tịch thu hoăc xung công,

- Yêu cầu đền bồi thanh danh của các giáo sĩ đã bị nhục mạ và danh dự của các giáo hữu đã bị vu khống.

Cán bộ VC rất căm tức những lời kết án của dân chúng. Lúc đầu họ nhất định không ký tên, nhưng với áp lực của hàng ngàn người, họ bắt buộc phải ký vào quyết nghị. Ban tổ chức đã gởi bản quyết nghị này đến 4 nơi : Tòa thánh La Mã (qua trung gian của Ðức Khâm sứ Dooley), Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến, Hồ Chí Minh và gởi đến chính quyền quốc gia miền Nam. Phía CSVN đã tìm đủ mọi cách ngăn chặn bản quyết nghị đến tay Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến.

Dân chúng đã dùng ngay chính sách sửa sai của CSVN để đòi lại chồng con đã bị giết, tài sản đã bị cưỡng đoạt và đòi được di chuyển tự do vào Nam như đã cam kết trong Hiệp định Geneva. Giữa lúc đó, được tin chiều ngày 9-11-1956, Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến sẽ đi qua Cầu Giát để lên Hà Nội, hàng ngàn người đã kéo ra đường số 1 chờ đợi. Ðồng bào đã góp đơn lại giao cho 6 thanh niên đại diện đưa thư. Mấy ngàn đồng bào đã nằm ngay trên đường để chận xe lại. Sáu thanh niên đã đưa cho viên sĩ quan Ấn Ðộ trong Ủy Ban mấy vạn lá thư đựng trong bao bố. Viên sĩ quan này cho biết sẽ trình lại cấp trên và trả lời vào ngày thứ Bảy trong tuần.

Sau đó, ngày 10-11-1956, khoảng 10.000 nông dân đã mở đại hội lần thứ hai tại xã Cẩm Trường để bàn thảo về ngày thứ Bảy. Mọi người đều tỏ ra hân hoan khi biết sắp sửa từ bỏ địa ngục trần gian. Nhưng ngay lúc đó, CSVN đã điều động 2 đại đội chủ lực và 1 đại đội công an võ trang huyện Diễn Châu về xã Cẩm Trường để giải tán đại hội nông dân. Bạo động đã xảy ra. Tiếng súng và lựu đạn nổ vang trời. Mặc dù tay không nhưng khí thế quần chúng quá mạnh, những người phía sau đã tràn lên thay cho những người gục ngã phía trước.

Cuối cùng, dân chúng đã bao vây đồn bộ đội, công an vào giữa. Ðêm hôm đó, CS đưa thêm 2 trung đoàn về bao vây 10.000 nông dân tại xã Cẩm Trường. Dưới cơn mưa phùn lất phất cuối đông, cảnh tượng bi hùng đã diễn ra ở 1 trận địa giữa 10.000 nông dân và 2 vòng trong ngoài đầy những công an và bộ đội. Tờ mờ sáng này 11-11-56, các bà mẹ đã đánh trống, mõ kêu gọi dân chúng quanh vùng đến tiếp cứu. Xã Diễn Châu như bị động đất. Rồi 30.000 nông dân kéo đến vây phía ngoài 2 trung đoàn chính quy của CS, trở thành 1 vòng bao vây thứ tư. Cuộc nổi dậy bộc phát quá lớn, quá mau, đã đi ra ngoài sự tiên liệu của cả 2 bên. Hồ Chí Minh rất căm hận biến cố này vì Nghê An là quê quán của ông ta, nhưng Hồ Chí Minh chưa biết cách giải quyết thế nào để gỡ thể diện cho mình và đảng. CS cũng tìm cách liên lạc với Giám mục Trần Hữu Ðức nhờ ông giải quyết, nhưng ông đã trả lời : "Tôi không biết về vấn đề chính trị, vì tôi là nhà tu hành". Lúc bấy giờ, phía dân chúng đã có 1 số lượng vũ khí đáng kể, tịch thu được từ bộ đội. Chưa bao giờ 1 cuộc nổi dậy ở miền Bắc lại có đủ tất cả thành phần dân chúng, kể cả các đảng viên CS.

Ðêm 11 rạng ngày 12-11-1956, một số nghĩa quân lén trở về Quỳnh Lưu để tổ chức biểu tình yểm trợ cho dân quân xã Diễn Châu. Ðêm hôm đó, 3000 thanh niên các xã Do Xuyên, Ba Làng và Nông Cống (tỉnh Thanh Hóa) đã kéo vào yểm trợ nghĩa quân. 4g sáng cùng ngày, một Ủy Ban Biểu Dương Lực Lượng Nông Dân Quỳnh Lưu và Ủy Ban Tiếp Tế Nghĩa Quân được thành lập. Phụ nữ, trẻ em đã mang gạo, thực phẩm đến xã Cẩm Trường, nơi cuộc đấu tranh đã bước vào ngày thứ 3.

Rạng ngày 13-11-1956, một cuộc biểu tình vĩ đại với sự tham gia của gần 100.000 đồng bào tỉnh Nghệ An. Bài hát "Quỳnh Lưu Khởi Nghĩa" đã được truyền đi khắp nơi, hoà với những đợt trống, mõ vang lên liên tục :

Anh đi giết giặc lập công

Con thơ em gửi mẹ bồng

Ðể theo anh ra tiền tuyến

Tiêu diệt đảng cờ Hồng

Ngày mai giải phóng

Tha hồ ta bế ta bồng con ta

Cuộc biểu tình đã tuần hành tiến về Ty Công an Ngệ An, hô thật to những khẩu hiệu : "Lương giáo đoàn kết chặt chẽ sau lưng các nghĩa quân", "Lương giáo quyết tâm chống CS khát máu", "Tinh thần Quỳnh Lưu bất diệt"... Công an tỉnh lẩn trốn từ lâu trước khí thế này. Dân chúng thi nhau nhảy lên nóc Ty Công an, xé tan cờ đỏ sao vàng, đạp vỡ ảnh HCM và các lãnh tụ CS quốc tế.

Trước tình hình này, Hồ Chí Minh ra lịnh cho Văn Tiến Dũng điều động Sư đoàn 304 từ Thanh Hóa, Phủ Quỳ và Ðồng Hới về bao vây nghĩa quân. Sư đoàn này quy tụ nhiều bộ đội miền Nam tập kết mà Hồ Chí Minh muốn xử dụng, thay vì dùng bộ đội sinh quán ở miền Trung hoặc miền Bắc, để có dịp trút tội cho binh đoàn miền Nam nóng tính này. Trận địa tại xã Cẩm Trường đã lên đến 5 vòng đai giữa dân quân và VC.

Buổi chiều cùng ngày, nghe tin dân quân xã Cẩm Trường bị Sư đoàn 304 vây, gần hàng chục ngàn người đã tiến về xã Cẩm Trường để tiếp cứu. Vòng đai chiến trận đã tăng lên lớp thứ 6. Buổi tối ngày 13-11-1956, hơn 20.000 nông dân từ Thanh Hóa lại kéo vào tiếp viện, mang theo đầy đủ lương thực, tính kế trường kỳ đấu tranh.

Ngày 14-11-1956, Văn Tiến Dũng huy động thêm Sư đoàn 312 vào trận địa quyết tiêu diệt nhân dân Quỳnh Lưu. Khi vòng đai thứ 7 thành hình, Hồ Chí Minh ra lịnh tiêu diệt cuộc nổi dậy có một không hai trong lịch sử đấu tranh chống VC. Trước bạo lực đó, nông dân vẫn cứ quyết tâm tử chiến để bảo vệ căn cứ. Lịnh của ban chỉ đạo nghĩa quân được truyền đi : Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để giải phóng dân tộc.

Nhưng vì vũ khí quá thô sơ, nghĩa quân phải rút vào rừng sâu. Sau khi trận chiến kết thúc, quân đội VC đã xông vào các làng Thanh Dạ, Song Ngọc, Cẩm Trường bắt tất cả già trẻ lớn bé giải đi. Họ tra khảo từng người để tìm ra ban chỉ đạo đấu tranh nhưng vô hiệu, vì bất cứ ai, kể cả các em thiếu nhi, đều tự xưng là người lãnh đạo cuộc cách mạng này. Không bắt được ai, VC đành thả bà con ra về, nhưng Hồ Chí Minh tính kế bắt đi Linh mục Hậu và Linh mục Ðôn của 2 xứ Cẩm Trường và Song Ngọc. Dù 2 vị này đã nói: "Chúng tôi là nhà tu hành, chúng tôi không biết gì đến việc nhân dân", nhưng cũng bị công an kéo lê lên xe giải về Hà Nội.

CS bắt 2 vị linh mục phải lên đài phát thanh đổ lỗi cho giáo dân và nông dân, nhưng 2 vị không băng lòng. CS đe dọa nếu không tuyên bố như vậy thì sẽ giáng tội cho 2 vị là những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa phản động này. Họ mang hình ảnh Linh mục Tấn bị thủ tiêu ở Phủ Quỳ ra dọa nạt. Cuối cùng, 2 vị phải tuyên bố ngược lại sự thật.

*****

Dù nhà cầm quyền CS vẫn cố tình che giấu, xuyên tạc cuộc nổi dậy của nhân dân Quỳnh Lưu cho đến ngày hôm nay, dù họ đã dùng bạo lực đàn áp, giết chóc và đày ải hơn 6.000 nông dân trong biến cố Quỳnh Lưu, nhưng tinh thần yêu nước, can trường của người dân các tỉnh miền Trung nói chung, và ở tỉnh Nghệ An nói riêng, đã soi sáng cho các thế hệ sau con đường chính nghĩa để đòi lại tự do.

Người CS rồi sẽ không thể nào dùng những bàn tay giết người che lấp nổi mặt trời. Những việc làm của họ rồi sẽ được phơi bày ra ánh sáng.

Ðòi cho bằng được tự do, công bằng, quyền căn bản của con người không thể xem là một cái tội. Dùng bạo lực để áp đặt một tội danh là gieo nỗi oan khuất cho cả một dân tộc. Nỗi oan khuất đó đã chồng chất đến trời xanh. Nói về những nỗi oan sống dưới chế độ CS thì không biết bao nhiêu mà kể.

Với những nỗi oan của những người đã chết, oan khiên đeo nặng những người còn sống, đảng CSVN đã giải quyết ra sao? Chỉ là sự im lặng.

Thời gian cũng đủ chứng minh CSVN không thể trả lời. Nhưng người dân VN có thể sẽ tự trả lời khi cao trào thèm khát cuộc sống tự do dân chủ tới hồi chín muồi. Tiếng trống bi hùng của đồng bào Quỳnh Lưu 60 năm về trước vẫn còn vọng về thúc giục người có lòng ái quốc, thương nòi trong chúng ta. Bài hát vang trong bầu trời Quỳnh Lưu như nhắn nhủ gọi người can trường đi tìm chân lý của cuộc sống : con người sinh ra phải được tự do.

Tài liệu tham khảo :

- Trăm Hoa Ðua Nở Trên Ðất Bắc của Hoàng Văn Chí.

- Cuộc Cải Cách Nông Ngiệp tại Miền Bắc của Võ Trường Sơn.

- Việt Nam Giáo Sử của Phan Phát Huồn.

- Cuộc Phiêu Lưu của một Gia Ðình Nông Dân của Thập Lang.


Sunday, July 26, 2009

 

Thư hiệp thông với Giáo phận Vinh và Giáo xứ Tam Tòa

Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền
Thư hiệp thông với Giáo phận Vinh và Giáo xứ Tam Tòa
26-07-2009
 
 Kính thưa:
 
- Đức Giám mục và Linh mục đoàn Giáo Phận Vinh,
- Cha Quản xứ và Anh Chị Em Giáo hữu Tam Tòa,
 
 Chúng con ký tên dưới đây là đại diện cho Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền, tức là một số anh em linh mục đang dấn thân tranh đấu cho tự do tôn giáo và dân chủ nhân quyền theo tinh thần của vị Chủ chăn Tổng giáo phận Huế đã bị Cộng sản sát hại là Đức Cố Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền.
 
 Dựa theo Cấp báo, Thông báo rồi Đơn Khiếu nại của Tòa Giám mục Xã Đoài ngày 20 và 21-07-2009, tiếp đến là Thư thăm hỏi của Đức Giám mục ngày 22-07, Thư phúc đáp của Tòa Giám mục ngày 24-07, cùng những thông tin liên tục từ các chứng nhân trên các phương tiện truyền thông quốc nội và hải ngoại, chúng con biết rằng :
 
 - Sáng ngày 20-07-2009 vừa qua, Anh Chị Em Giáo hữu Tam Toà, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, với sự giúp đỡ của Giáo hữu một số Giáo xứ bạn, đã dựng một nhà tạm trên nền nhà thờ Tam Toà, là sở hữu của Giáo phận, để cử hành Thánh Lễ. Công việc vừa hoàn thành thì hàng trăm Công an tỉnh Quảng Bình (với sự hỗ trợ của nhiều thành phần bất hảo) đã ngang nhiên xông vào phá đổ nhà tạm, xúc phạm Thánh giá, tịch thu máy móc vật liệu, đánh đập dã man Giáo dân già trẻ bằng hung khí, cướp các máy quay phim chụp hình của họ, cuối cùng tống một số người lên xe như súc vật và đem về đồn giam nhốt. Sau đó nhà cầm quyền còn huy động lương dân trong vùng tới tìm cách phá rối thêm khiến cho Giáo dân phải tản dần. Nay thì có công an chìm nổi và côn đồ thuê mướn canh gác khu vực nhà thờ để theo dõi, hăm dọa và hành hung những ai đến thăm viếng hiệp thông với Giáo xứ Tam Tòa.
 
 - Khi các Linh mục phụ trách giáo hạt đi gặp nhà cầm quyền CS các cấp thuộc tỉnh Quảng Bình và thành phố Đồng Hới (Ủy ban Nhân dân và Công an) để chất vấn họ về việc đàn áp dã man dân lành ở Tam Toà, đòi hỏi họ trả tự do lập tức cho những người bị bắt giữ, đưa vào bệnh viện các nạn nhân bị công an đánh trọng thương và hoàn trả những phương tiện máy móc tịch thu cách phi pháp, các ngài đã bị "những đầy tớ nhân dân" một là tránh gặp mặt, hai là từ chối những yêu cầu chính đáng của các ngài. Nhà cầm quyền CS còn lếu láo cho rằng họ trấn áp và bắt giữ Giáo dân vì đã lấn chiếm di tích, gây rối trật tự chung và tấn công người thi hành công vụ !?!
 
 - Trong khi đó, trả lời các hãng tin quốc ngoại lẫn quốc nội, cán bộ CS địa phương, chẳng hạn phó chủ tịch tỉnh Quảng Bình, ông Trần Công Thuật, đã trâng tráo bác bỏ việc công an đánh đập giáo hữu và còn nói rằng vụ đụng độ xảy ra là giữa giáo hữu và dân địa phương, công an chỉ tới để ổn định trật tự !?! Ông Thuật còn ngang nhiên tuyên bố chính quyền tỉnh đã quyết định lấy nhà thờ Tam Toà làm "khu di tích chiến tranh, ghi nhớ tội ác Đế quốc Mỹ" từ năm 1997, và rằng họ từng đề nghị cho Giáo phận 5 địa điểm để xây dựng nhà thờ mới, nhưng Giáo phận cho tới nay vẫn không chịu. Nhiều cán bộ khác còn vu cáo "Giáo hữu là dân phản động, đến Tam Tòa dựng lại nhà thờ là tiếp tay cho Đế quốc, chống lại chính quyền, muốn xóa đi chứng tích Mỹ đã phá hoại Việt Nam"!?!
 
 - Ngày 22-7, với thói quen "vừa ăn cướp vừa la làng" y như tại Giáo xứ Thái Hà, Hà Nội, công an tỉnh Quảng Bình lại quyết định khởi tố bảy Giáo dân (mà họ đã ngẫu nhiên bắt được) về tội gọi là "xây dựng trái phép, gây rối trật tự, chống người thi hành công vụ, ném đá vào người dân địa phương tại khu Chứng tích tội ác chiến tranh tháp chuông nhà thờ Tam Tòa". Các Anh Chị Em đó là Mai Xuân Thú (sinh năm 1953), Cao Thị Tình (1957), Nguyễn Quang Trung (1973), Mai Lòng (1986), Hoàng Hữu (1955), Hoàng Thị Tý (1988) và Nguyễn Văn Dần (1974). Và vẫn cứ mánh khóe cũ, Công an tuyên bố "các bị can đã thừa nhận việc làm sai trái của mình" khi họ còn đang cô đơn trong bàn tay sắt máu và nham hiểm của Công an cũng như chưa có phiên tòa công minh và công khai xét xử.
 
 - Sau cuộc đánh hội đồng của hàng trăm công an tỉnh Quảng Bình hôm 20-7-2009, nay thì đến lượt hàng trăm tờ báo công cụ tại Việt Nam, khởi đầu là tờ Nhân Dân, cơ quan ngôn luận chính thức của đảng CSVN, mở một đợt cường tập thứ hai tấn công vào Giáo phận Vinh và 7 nạn nhân đang bị giam giữ. Báo này ngày 22-07-2009 đã có bài viết đầy đao to búa lớn : «Vụ xâm phạm chứng tích tội ác chiến tranh Tháp chuông nhà thờ Tam tòa (Đồng Hới, Quảng Bình) : Cần nghiêm trị những đối tượng vi phạm pháp luật». Với giọng lếu láo như thường thấy, tờ báo cho rằng Giáo dân đã «tiến hành xây dựng nhà trái phép, đặt tượng trong khuôn viên chứng tích bất chấp sự giải thích, bảo vệ của người dân Đồng Hới và chính quyền địa phương... một số đối tượng quá khích đã dùng gạch đá và gậy gộc tấn công lực lượng chức năng và người dân địa phương...». Đài Truyền hình VN cũng đang loan những tin tức xuyên tạc sự việc và vu cáo Giáo dân Tam Tòa.
 
 Trước những sự kiện trên, Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền chúng con tuyên bố :
 
 1- Hoàn toàn ủng hộ các đòi hỏi của Giáo phận Vinh và của Linh mục đoàn trong Thư khiếu nại ngày 22-07 cũng như trong Thư phúc đáp ngày 24-07. Chúng con đặc biệt đồng thuận với lời tuyên bố của cha Phạm Đình Phùng, chánh văn phòng TGM : «Cho đến nay, khuôn viên, tháp chuông nhà thờ Tam Tòa vẫn thuộc chủ quyền giáo xứ Tam Tòa, Giáo phận Vinh», cũng như lời chị Thu Thủy, Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo xứ Tam Tòa: "Chúng tôi muốn đòi lại công lý và đòi lại quyền sở hữu của chúng tôi nơi ngôi thánh đường đó" (RFA 22-07-2009). Đây là sự khẳng định chính đáng về quyền tư hữu đất đai của Giáo hội nói chung và của người dân Việt Nam nói riêng. Quyền này "là một bảo đảm hữu hiệu cho phẩm giá con người và là một trợ lực cho con người tự do thực thi các trách nhiệm khác nhau của họ" (ĐGH Gioan XXIII, Thông điệp "Hòa bình trên thế giới" số 21). Thế nhưng quyền thiêng liêng này, cho đến nay, vẫn bị đảng và nhà cầm quyền CSVN ngang nhiên tước đoạt của các cá nhân lẫn các tập thể, nhất là tập thể tôn giáo. Bằng chứng gần đây nhất là vụ Tòa Khâm sứ và Giáo xứ Thái Hà ở Hà Nội.
 
 2- Cực lực phản đối việc Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Bình, từ năm 1997 -không hề hỏi ý kiến Tòa Giám mục Vinh- đã tự tiện và lộng quyền coi Nhà thờ Tam tòa như "Chứng tích tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ", bởi lẽ nó đã bị máy bay Hoa Kỳ ném bom tàn phá năm 1968 chỉ còn lại tháp chuông. Theo lịch sử, sở dĩ nhà thờ bị ném bom là vì quân đội Cộng sản thời đó đã bố trí các đơn vị phòng không chung quanh và cả bên trong nhà thờ, y như tại nhiều nhà thờ khác thuộc Giáo phận Vinh và trên cả miền Bắc trước năm 1973, theo chính sách tiêu diệt tôn giáo tinh vi của CS. Ngoài ra, đang khi chứng tích chiến tranh không hề thiếu ở bất cứ chỗ nào trên đất nước Việt Nam, thì việc biến một biểu tượng của Công giáo, đạo tình thương và tha thứ, thành biểu tượng ghen ghét hận thù, là một hành vi xúc phạm tôn giáo cách trầm trọng. Nếu gọi tháp chuông Tam Tòa là chứng tích tội ác, thì đó là chứng tích tội ác của CS quyết mượn tay Mỹ tàn phá cơ sở Công giáo năm 1968 và chứng tích tội ác của CS hôm 20-07 mới rồi. Tội ác đánh đập, nhục mạ các giáo hữu; tội ác dùng lương dân tấn công giáo dân nhằm chia rẽ, kích động hận thù tôn giáo trong lòng dân tộc; tội ác phá hoại, tịch thu tài sản, đánh đập dân lành không theo bất cứ trình tự pháp luật đúng đắn nào, không có bất cứ một văn bản, mệnh lệnh nào; tội ác dùng hệ thống pháp đình và hệ thống báo đài nhằm bôi nhọ, xuyên tạc sự thật, đổ lên đầu dân lành vô tội những tội trạng mà họ không hề có nhằm giấu đi sự man rợ của mình; tội ác ngang nhiên chiếm nơi thờ tự của Giáo dân, nhằm tước đoạt quyền tự do tôn giáo được Pháp luật bảo vệ và nhằm cướp lấy tài sản của Giáo hội.
 
 3- Cực lực phản đối việc nhà cầm quyền địa phương Quảng Bình, trong chủ trương vô thần đấu tranh không hề lay chuyển, quyết tâm biến thành phố Đồng Hới thành một vùng trắng, nghĩa là sạch mọi dấu vết tôn giáo, đang khi Giáo xứ Tam Tòa đã liên tục hiện hữu từ năm 1631, Nhà thờ Tam Tòa đã được xây từ năm 1940, và hiện có khoảng 600 Giáo dân đang sinh sống trong khu vực. Đây cũng là chủ trương mà CS đang muốn thực thi tại khu Đô thị mới Thủ Thiêm, Sài Gòn, bằng cách xóa sổ Dòng Mến Thánh Giá vốn đã tồn tại ở đấy từ năm 1840 và Giáo xứ Thủ Thiêm vốn đã được thành lập ở đấy từ năm 1859.
 
 4- Chân thành hiệp thông với Đức Cha, với Anh em Linh mục đoàn và nửa triệu Giáo hữu Giáo phận Vinh trong trong các khó khăn, sách nhiễu, đàn áp mà Giáo phận đang gánh chịu những giờ phút này, trong các hoạt động từ cầu nguyện, vận động đến đấu tranh mà Giáo phận đang thực hiện để đòi lại công lý cho Giáo xứ Tam Tòa, cho những Anh Chị Em bị hành hung, nhất là cho 7 Anh Chị Em đang bị cả hệ thống Pháp lý gian tà độc ác hành tội. Từ đó, trong sự phối hợp với mọi Giáo phận, mọi Giáo hội, mọi Thành phần Dân tộc, trong đường lối hòa bình bất bạo động nhưng quyết liệt kiên trì, trong thái độ chấp nhận gian khổ và can đảm hy sinh, tất cả chúng ta sẽ chung tay đòi lại công lý và sự thật, hạnh phúc và tự do cho Đồng bào, đòi lại Độc lập Dân tộc và Vẹn toàn Tổ quốc vốn đang lâm nguy vì ngoại xâm cướp nước và nội xâm bán nước. 
 
 Bởi lẽ những sai lầm và tội ác đối với Giáo phận Vinh và Giáo xứ Tam Tòa trên đây -cũng như đối với toàn thể Dân tộc và Đất nước qua bao vụ việc tước đoạt nhân quyền và dân quyền, cướp bóc đất đai và tài sản, tiến cống đất liền và hải đảo cho ngoại bang- mà đảng và nhà cầm quyền Việt Nam đang phạm từng ngày từng giờ từ hơn 60 năm nay, tất cả đều bắt nguồn sâu xa từ cái chủ nghĩa Cộng sản duy vật vô thần, làm băng hoại lương tâm và mờ tối lương tri, từ cái chế độ Cộng sản độc tài gian ác, chà đạp con người, tiêu diệt tôn giáo, coi khinh công lý, xuyên tạc sự thật, từ cái đảng Cộng sản phi nhân bản, vô tổ quốc, chỉ biết đặt quyền lợi và sự tồn tại của mình trên quyền lợi và sự tồn tại của Đồng bào và Dân tộc. Cái chủ nghĩa khốn nạn ấy phải bị tẩy rửa khỏi tâm trí toàn dân Việt Nam, cái chế độ khốn nạn ấy phải bị xóa sạch khỏi xã hội Việt Nam và cái đảng bất chính, bất nhân và bất tài ấy phải bị xua đuổi khỏi vũ đài chính trị Việt Nam. Không thể chần chờ hơn được nữa!
 
 Nguyện xin Thiên Chúa, qua lời chuyển cầu của các Thánh Tử đạo Việt Nam, ban xuống cho Đức Cha và toàn thể Giáo phận Vinh nhiều ơn khôn ngoan và can đảm.
 
 Việt Nam, Chúa nhật 26-07-2009, giữa lúc nghe tin Tam tòa đang bị đàn áp tiếp.
 
 Đại diện Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền
 
- Linh mục Têphanô Chân Tín, Dòng Chúa Cứu Thế, Sài Gòn (đang nghỉ hưu)
- Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải, Tổng Giáo phận Huế (đang bị sách nhiễu)
- Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý, Tổng Giáo phận Huế (đang bị cầm tù)
- Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Giáo phận Bắc Ninh (đang bị quản thúc)
 

 

Monday, July 13, 2009

 

Linh mục Nguyễn Văn Lý vẫn bất khuất trong lao tù

(Bản tin ngày 13-07-2009)

Sáng ngày 09-07-2009, chị ruột của linh mục Nguyễn Văn Lý là bà Nguyễn Thị Hiểu và một người cháu gái đã từ Quảng Biên ra trại K1, xã Ba Sao, huyện Kim Bảng, thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam để thăm vị tù nhân lương tâm. Cuộc gặp bắt đầu từ 9g và kéo dài đến gần 10g30.

Sau khi hỏi han tin tức gia đình và bạn bè, linh mục Lý cho biết:

Hôm 13-05-2009, phái đoàn 6 người thuộc Ủy hội Tự do Tôn giáo Quốc tế của Hoa Kỳ đã đến thăm cha tại trại. Ban đầu cuộc gặp được ấn định là 30 phút nhưng rốt cục kéo dài một tiếng rưỡi. Vừa chào hỏi xong, linh mục Lý phân trần:

- Quý vị đừng thấy tôi mặc áo tù sọc dưa này [xin xem hình bên dưới, do phái đoàn chụp] mà bảo tôi chấp nhận mình là phạm nhân. Tôi đã không muốn gặp Quý vị với bộ đồ tù này, nhưng vì nghĩ tình Quý vị đã vất vả xin phép nhà nước rồi lặn lội đến đây thăm tôi, nên tôi mới nén lòng mặc nó mà ra tiếp Quý vị.

Trước tiên phái đoàn hỏi là Tòa Tổng giám mục Huế, kể từ 30-03-2007 cho tới hôm nay, đã đi thăm linh mục bao nhiêu lần. Nghe cha Lý đáp là “hai”, phái đoàn cười !?!

Lại hỏi:

“Thế còn gia đình?”
- “Hai tháng thăm một lần”
- “Vậy là vẫn ít”
- “Gia đình tôi ở xa, cách đây hơn cả 1000 cây số!”.

Tay công an canh gác -thiếu tá Nam- xen vào: “Nhưng hàng tháng vẫn có gởi quà! Yêu cầu Anh Lý nói điều này cho phái đoàn rõ” !?! Chế độ ta nhân đạo lắm chứ !?!

Phái đoàn hỏi tiếp: “Linh mục có muốn phiên tòa được mở lại có luật sư không?” vì họ đã rõ vụ xử án ngày 30-03-2007 tại Huế là phi pháp, quái đản, vì không luật sư, không thân nhân, không nhân chứng, kể cả không quyền tự biện hộ.

Linh mục Lý trả lời:

- Theo luật Việt Nam, nếu muốn kháng án thì chỉ trong vòng 15 ngày. Nhưng nay đã hơn hai năm rồi. Kháng án chi được nữa!!! Mà có luật sư cũng chỉ từng ấy!!!

- Chúng tôi sẽ yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do ngay cho linh mục, sau đó phải để linh mục đi làm việc tự do, không được quản chế!

Linh mục Lý nhận định với bà chị (và cháu gái): “Họ nói thế chứ em không hy vọng gì, vì lúc này em đang căng với nhà nước lắm!”

Rồi cha kể tiếp: “Cách đây 2 hôm, tức ngày 07-07, lần đầu tiên em được nhà tù cho đọc báo Nhân Dân. Số báo đọc lần đầu này ra ngày 06-06, trong đó có bài “Một việc làm sai lầm”. Tác giả nói hôm 1-7-2009, một số Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đã khơi lại phiên tòa xử em qua bức thư gửi Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết. Họ yêu cầu xem lại những thiếu sót nghiêm trọng trong tiến trình bắt giữ, xét xử và giam em cùng các bạn. Họ còn yêu cầu nhà nước phải lập tức trả tự do vô điều kiện cho em và cho phép em trở về nhà, tiếp tục công việc linh mục, không bị hạn chế các quyền tự do đã được quốc tế công nhận.

“Em thấy đòi hỏi này là chính đáng và em xin cảm ơn các Thượng nghị sĩ. Tuy nhiên bài báo đó có hai điểm sai lầm mà kẻ đáng trách không phải là tác giả nhưng là viên Tổng biên tập [xin mở ngoặc: 700 tờ báo Việt Nam hiện chỉ có một Tổng biên tập duy nhất!?!].

Một là chi tiết: “Nguyễn Văn Lý xô ngã hai công an áp giải”. Không hề có chuyện đó! Khi bị hai công an xốc nách hai bên đẩy vào tòa án [xin xem hình bên dưới], em chỉ rì lại, không chịu đi, để bày tỏ sự phản kháng phiên tòa, chứ với hai tay bị cùm thì làm chi mà xô ngã được họ. Láo! Họ giữ chặt, bóp chặt đến độ ngày hôm sau, hai cánh tay em còn bị tím bầm.

Chi tiết thứ hai: “đạp đổ vành móng ngựa”. Đúng là em có đưa chân đá vào nó, khiến nó lệch một chút [băng video còn ghi lại rõ ràng], để tiếp tục bày tỏ sự phản đối và đả đảo tòa án phi pháp, vô luật của Cộng sản. Làm chi mà có chuyện vành móng ngựa bị đạp đổ! Chị và cháu về nhớ nói lại với mọi người là đừng bao giờ đọc báo Nhân dân cả! Đó là một tờ báo nói láo chuyên đời. (Vừa nói, linh mục Lý vừa đập mạnh xuống bàn, trước mắt viên thiếu tá công an canh gác!).

“Một chuyện đáng phản đối khác mà em muốn nêu ra đây là nội quy “cấm truyền đạo” của nhà tù. Quốc tế người ta có bao giờ cấm như vậy đâu! Thậm chí người ta còn cho phép đem sách Thánh kinh của đạo (Công giáo, Hồi giáo, Tin lành giáo) vào tù, còn cho phép tổ chức việc cầu nguyện theo tôn giáo mình nữa”. Quay sang viên công an, linh mục Lý nói thẳng: “Tôi phản đối quy định này”.

Quay lại với hai người thân, linh mục Lý bảo: “Xin về nói với bà con là đừng trông mong tôi ra tù sớm. Cứ chịu khó đi thăm nuôi cho đến năm 2015. Lo giữ gìn sức khỏe để mà đi thăm! Cũng đừng sợ tôi sẽ lung lay, chao đảo! Có bao giờ tôi nhận mình là phạm nhân, mắc tội với nhà nước, với luật pháp Cộng sản đâu! Bằng cớ là từ mấy lâu nay, họ bắt tôi cứ ba tháng làm kiểm điểm một lần. Có chi mà kiểm điểm! Tôi kiểm điểm nhà nước này thì có! Nhưng vì họ ép quá, nên mỗi lần như thế, tôi đều viết vỏn vẹn 5 chữ: “Tôi vui vẻ ở tù!”

[Xin mở một dấu ngoặc: Ngoài 1 Tuyên ngôn, 9 Lời Kêu gọi, 2 Lời Chứng trước các cơ quan quốc tế mà linh mục Lý từng viết ra từ cuối năm 2000 đến đầu năm 2001, thì kể từ ngày 27-02-2001 tới ngày 09-05-2001, mỗi lần công an đến giáo xứ An Truyền, Huế, để chất vấn, lập biên bản, thì linh mục Lý lại lập biên bản về công an và ĐCSVN, tổng cộng 19 biên bản, với tiêu đề “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: Thiếu Độc lập, Mất Tự do, Không Hạnh phúc” lên án ĐCSVN tội phản quốc, vi phạm nhân quyền, chà đạp tín ngưỡng, ức hiếp các Giáo hội (xin xem một biên bản tiêu biểu bên dưới). Có lẽ đây là trường hợp vô tiền khoáng hậu trong chế độ phi nhân gian dối và bạo tàn như chế độ CSVN].

Linh mục Lý cũng cho hay mình có nghe tin Hội đồng Giám mục Việt Nam đi Rôma viếng mộ hai thánh Tông đồ, có biết vụ việc Luật sư Lê Công Định cùng nhóm bạn rồi ông Trần Anh Kim và Nguyễn Tiến Trung bị nhà cầm quyền CS bắt. Linh mục nhận định đó là những công dân yêu nước, việc đấu tranh dân chủ của họ đáng ca ngợi và ủng hộ. CS vì sợ mà bắt họ thôi!

Sau khi nói chuyện được một giờ, viên công an thúc giục linh mục Lý đi vào. Nhưng cũng như mọi lần, linh mục cự nự lại và ngồi nói chuyện tiếp 30 phút nữa.

Giã từ bà chị và cô cháu gái, linh mục dặn lần sau nhớ mua cho mình thuốc trị cao huyết áp hoặc gởi cho thức ăn gì giảm huyết áp cao (nay có khi lên tới 16), vì nếu chỉ gởi dụng cụ đo huyết áp (kiểu y tá bác sĩ thường dùng) và dụng cụ xông mũi như lần này thì không đủ. Linh mục cho biết: thời gian gần đây, trại giam có cho linh mục một số thuốc men nhưng chẳng có mấy hiệu quả nào. Điều này chẳng có gì lạ. Ở ngoài đời, thuốc do bảo hiểm y tế cấp còn chẳng ra chi, huống nữa là trong nhà tù cộng sản. Trường hợp bệnh tình luật sư Lê Thị Công Nhân hiện nay với sự chữa chạy tồi tệ trong nhà tù chứng nhận thêm chuyện ấy. Điều đó cho thấy tình trạng sức khỏe của vị tù nhân lương tâm đang có vấn đề. Xin đồng bào khắp nơi, đặc biệt giới y sĩ, tiếp tục quan tâm theo dõi, vận động, đồng thời giúp lời cầu nguyện.

Nhóm Phóng viên FNA và 8406 tường trình từ Huế lúc 17g30 ngày 13-07-2009

*http://www.nhandan.org.vn/tinbai/?top=0&article=151588




This page is powered by Blogger. Isn't yours?

Tin Việt Nam

(freevietnews.com)