Monday, June 29, 2009

 

Thư ngỏ gửi Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam

Thư ngỏ gửi Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam,
ông Michael Michalak

Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền

Việt Nam ngày 25-06-2009

Kính thưa Ông Đại sứ

Chúng tôi ký tên dưới đây là đại diện cho Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền, tức là nhóm Linh mục Việt Nam sống theo tinh thần của Cố Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền, vị chủ chăn Công giáo can đảm từng cai quản Giáo phận Huế nhưng đã bị Cộng sản ám hại ngày 08-06-1988.

Theo bản tin của phóng viên Thanh Quang, đài RFA hôm 18-06-2009, thì Ông Đại sứ đã gặp nhiều cá nhân và tổ chức Việt Nam hải ngoại ở Washington D.C. ngày 13-06-2009 tại tư gia bác sĩ Nguyễn Quốc Quân (www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Michael-michalak-met-with-various-vietnamese-american-representatives-in-washington-area-06182009164514.html).

Dựa theo những lời phát biểu của Ông hôm đó mà bản tin RFA có ghi lại và chúng tôi hy vọng là không sai lạc, chúng tôi xin trả lời Ông như sau:

1- Ông nói: "Cần phải minh định rõ rằng đạo luật tự do tôn giáo chỉ đề cập tới vấn đề tự do tôn giáo, nó không nhất thiết liên quan đến nhân quyền".

Thế Ông nghĩ sao về điều 18 trong Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị được biểu quyết ngày 16-12-1966. Ðiều 18 này nói rõ: "1- Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Quyền này bao gồm quyền tự do theo một tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự thờ phụng, hành đạo, nghi lễ hay giảng dạy, hoặc riêng tư hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng. 2- Không ai bị cưỡng bách tước đoạt quyền tự do lựa chọn tôn giáo hay tín ngưỡng…" Phải chăng khi nói như trên, Ông Đại sứ hàm ý rằng việc không có tự do tôn giáo chẳng phải là việc mất đi (một phần) nhân quyền hay việc bách hại thành viên tôn giáo chẳng phải là việc vi phạm nhân quyền?

2- Ông nói: "Hiện giờ Giáo hội Công giáo không dính líu đến chính trị" và "Giáo hội tại VN phải ở ngoài phạm vi chính trị".

Thưa Ông, là một nhà ngoại giao lâu năm và học lắm hiểu nhiều, Ông hẳn biết rằng có hai thứ chính trị: chính trị đảng pháichính trị công dân. Các tôn giáo, đặc biệt là Công giáo, cụ thể là các lãnh đạo tôn giáo, đặc biệt là các lãnh đạo Công giáo, không được dính líu đến chính trị đảng phái, nghĩa là không được thành lập hoặc gia nhập một quân đội để đấu tranh vũ trang cũng như không được thành lập hoặc gia nhập một đảng phái để đấu tranh nghị trường với một nhà nước hay với các đảng phái khác (các giáo dân Công giáo thì có thể làm việc này nhưng không được nhân danh Giáo hội). Tuy nhiên, các tôn giáo, các giáo hội đều có quyền và có nghĩa vụ làm chính trị công dân xét theo tư cách cá nhân các lãnh đạo tôn giáo hoặc theo tư cách tập thể các Giáo hội.

Quyền và nghĩa vụ này còn mang tính đòi hỏi hơn đối với tôn giáo, bởi lẽ tôn giáo -ngoài chức năng giới thiệu, dẫn đường đến Đấng Chân Thiện Mỹ Tuyệt Đối- còn có chức năng giới thiệu, dẫn đường đến tính chân thiện mỹ trong mọi hành vi của con người, từ cá nhân đến tập thể, nhất là các hành vi thuộc hoạt động chính trị. Nói cách khác, các tôn giáo có quyền và nghĩa vụ làm lương tâm luân lý, làm thầy dạy đạo đức, làm ngôn sứ sự thật, làm chiến sĩ lẽ phải cho toàn xã hội. Cụ thể ra, các tôn giáo có quyền và nghĩa vụ phát ngôn (tuyên bố, kiến nghị, kháng thư) lẫn hành động (tụ tập cầu nguyện, biểu tình phản đối) khi có bất công trong xã hội, có áp bức từ phía chính quyền, có sai lầm từ các chính sách, có triệt tiêu hay giới tự do từ chế độ cai trị, có nguy cơ do nội xâm và ngoại xâm…

"Giáo hội tại Việt Nam phải ở ngoài phạm vi chính trị", câu nói này của Ông Đại sứ thật là đúng ý Cộng sản. Bởi lẽ Cộng sản trước kia gọi tôn giáo là thuốc phiện mê dân, nhưng nay muốn tôn giáo thật là thuốc phiện ru ngủ quần chúng, muốn các tôn giáo, cụ thể là các lãnh đạo tôn giáo, im lặng trước những sai lầm và tội ác của chính đảng và chính phủ CS, trước chủ trương phá thai để điều hòa dân số, chủ trương bán rẻ sức lao động của công nhân, chủ trương xuất khẩu lao nô và tình nô ra nước ngoài, chủ trương cướp đất nông dân, cướp nhà thị dân, cướp tài sản giáo dân dưới chiêu bài quy hoạch phát triển, chủ trương đàn áp những ai lên tiếng đòi hỏi các nhân quyền dưới chiêu bài "ổn định chính trị", chủ trương giáo dục kiểu ngu dân, nhồi sọ, diệt ý chí, chủ trương nhượng biên giới, hải đảo, đất liền (Tây Nguyên chẳng hạn) cho ngoại bang để bảo vệ ngai vàng quyền lực.

3- Ông nói: "Liên hệ chính trị thường phải đương đầu với hàng loạt thứ luật lệ không liên quan luật về tự do tôn giáo, khiến đương sự gặp nhiều rắc rối. Như trường hợp Lm Nguyễn Văn Lý, vì vượt qua ranh giới này nên tiếp tục bị cầm tù".

Thưa Ông, đây là luận điệu mà nhiều chính khách Hoa Kỳ thuộc hành pháp vẫn dùng để kết án không những Linh mục Nguyễn Văn Lý mà cả Hòa thượng Thích Quảng Độ cùng các lãnh đạo tinh thần đã và đang đứng lên đương đầu với chế độ CSVN. Tự do tôn giáo và tự do dân sự là hai mặt của cùng một thực thể: nhân quyền. Các chức sắc tôn giáo vừa là thành viên của Giáo hội, vừa là công dân của Đất nước, vừa là anh em của mọi người. Các tôn giáo, theo bản chất, vừa phải bảo vệ những giá trị siêu linh vừa phải bảo vệ những giá trị nhân bản, vì hiện diện giữa cộng đồng con người và cộng đồng dân tộc. Linh mục Nguyễn Văn Lý (và nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền chúng tôi) khi lên tiếng chống độc tài đảng trị, chống đảng cử dân bầu… Hòa thượng Thích Quảng Độ (và Lưỡng viện Tăng thống, Hóa đạo của ngài) khi lên tiếng chống các hiệp định lãnh thổ và lãnh hải bất công, chống việc khai thác bauxite tại Tây Nguyên… tất cả đều chỉ hành động theo lương tâm và bổn phận của một tín đồ, một nhà tu hành, một chức sắc tôn giáo, đều chỉ bày tỏ thái độ chính trị (mà chúng tôi được quyền có) và thực thi chính trị công dân (mà chúng tôi được quyền làm). Hòa thượng Quảng Độ và Linh mục Lý chỉ gọi là "vượt qua ranh giới" khi các ngài có mưu tính nhảy vào chính trường (như nhiều vị tu hành đang là đại biểu Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân các cấp) hay nhắm một chức vụ nào đó trong chính quyền tương lai (một điều mà các ngài và chúng tôi chẳng bao giờ màng đến). Nhà cầm quyền CS đàn áp Linh mục Lý (cầm tù) và Hòa thượng Quảng Độ (quản chế) chính là đàn áp tôn giáo thực sự. Cho nên câu Ông nói: "Có một sự khác biệt rõ rệt giữa những người (theo tôn giáo) bị bắt vì bày tỏ quan điểm chính trị và những người đi lễ nhà thờ vào Chủ Nhật (mà bị đàn áp)", câu nói ấy, theo chúng tôi, bao hàm một sự phân biệt giả tạo.

4- Ông nhận xét: "Nói chung người dân VN hiện có cơ hội bày tỏ Đức tin của mình nhiều hơn trước đây" và nhận định: "Ngay trong lúc nầy, tôi không tin là có đủ bằng chứng để đưa VN trở lại danh sách CPC, tức những nước cần quan tâm đặc biệt về đàn áp tôn giáo".

Những nhận xét và nhận định này của Ông đã gặp phải phản ứng thế nào của cộng đồng người Việt tại quận Cam, Nam California ngày 05 và 06-06-2009 (x. RFA 08-06-2009) và của mục sư Thân Văn Trường từ Việt Nam ngày 12-06-2009 thì Ông đã rõ. Nay chúng tôi chỉ xin thêm vài ý kiến.

Hẳn Ông Đại sứ muốn nói người dân Việt Nam nay có cơ hội bày tỏ Đức tin mình hơn trước qua việc các tín đồ đến những nơi thờ tự đông đảo, các chức sắc ra ngoại quốc nườm nượp, các lễ hội tôn giáo được tổ chức linh đình, các Giáo hội được xây chùa chiền, thánh thất, nhà thờ nguy nga !?! Là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, một trí thức uyên thâm, hẳn Ông biết rằng đó chỉ là những thứ tự do tôn giáo rất ngoại diện, rất phụ tùy. Ngoài ra, không phải mọi tín đồ, mọi chức sắc, mọi tôn giáo đều được hưởng những thứ tự do ngoại diện đó (bị tước những thứ này là các Giáo hội truyền thống, thuần túy, phi quốc doanh, các chức sắc và tín đồ đấu tranh, đối kháng, "phản động").

Việc bày tỏ Đức tin cách đích thực, tự do tôn giáo đúng nghĩa nằm ở chỗ các tôn giáo và các tổ chức tôn giáo (1) phải được nhà nước thừa nhận quy chế (sau khi đăng ký, theo nghĩa trình báo), công nhận như những pháp nhân thực thụ; (2) phải được độc lập trong việc huấn luyện, tấn phong, bổ nhiệm, thuyên chuyển các chức sắc của mình, phải được tham gia vào các cơ quan xã hội, bộ máy nhà nước qua những tín đồ, giáo dân của mình; (3) phải được tự do trong các hoạt động, từ hoạt động thờ phượng đến hoạt động truyền giáo, hoạt động xã hội, hoạt động giáo dục; phải được sở hữu các phương tiện truyền thông, các cơ sở giáo dục mọi cấp; (4) phải được trả lại mọi cơ sở, đất đai đã bị nhà cầm quyền tịch thu từ 1954 hay từ 1975, phải được quyền sở hữu đất đai và mọi thứ tài sản khác (do thủ đắc, do dâng tặng); (5) phải được tự do liên lạc với các tổ chức, cơ quan đồng đạo ở nước ngoài mà không bị nhà cầm quyền can thiệp, lũng đoạn. Tất cả 5 quyền tự do tôn giáo cơ bản này chưa hề có tại Việt Nam.

Thành ra, Ủy hội Tự do Tôn giáo Quốc tế, nhiều chính khách thuộc Lập pháp của Hoa Kỳ (và cả những lãnh đạo tinh thần đấu tranh tại Việt Nam) đã rất đúng đắn khi yêu cầu chính phủ Mỹ đặt Việt Nam vào lại CPC với những chế tài đích đáng.

5- Ngoài ra, trong cuộc gặp gỡ cộng đồng người Việt tại quận Cam, Nam California ngày 05 và 06-06-2009, Ông Đại sứ đã hân hoan cho biết dù chỉ mới phục vụ được một nửa nhiệm kỳ tại Việt Nam, nhưng ông đã đạt được chỉ tiêu về việc nâng cao con số du học sinh từ Việt Nam vào nước Mỹ lên đến hơn 12 ngàn sinh viên. Rồi trả lời câu hỏi là việc gia tăng số du học sinh sẽ cải thiện tình hình nhân quyền tại Việt Nam như thế nào, Ông phát biểu: "Giáo dục sẽ giúp phần cải thiện nhân quyền đơn giản là vì khi người ta càng hiểu biết nhiều về thế giới xung quanh, thì họ lại càng có những chọn lựa khôn ngoan hơn, và tôi tin rằng họ sẽ tất nhiên có những quyết định có lợi ích cho việc cải thiện nhân quyền."

Ở đây, chúng tôi không cần nhắc lại phản ứng của Dân biểu Dana Rohrabacher vốn đã bác bỏ lý luận lạ lùng của Ông. Chúng tôi chỉ xin nhận xét rằng vấn đề hỗ trợ giáo dục tại Việt Nam có hai khía cạnh:

a - Nếu là việc tăng số du học sinh sang Hoa Kỳ (như ông đang làm), thì chúng tôi xin thưa rằng việc này không tất nhiên giúp cải thiện nhân quyền dân chủ. Vì như Ông Đại sứ biết, số sinh viên du học từ Việt Nam thường phân thành ba loại: loại con cái đảng viên cán bộ CS, loại con cái những nhà giàu mới nổi và loại học sinh nghèo nhưng xuất sắc. Loại con cái đảng viên cán bộ học hành về để thay thế cha ông tiếp tục thống trị dân Việt. Loại con cái nhà giàu hoặc ở lại Hoa Kỳ sau khi tốt nghiệp, hoặc trở về thì e rằng cũng chỉ lo kiếm tiền, tiến thân hơn là cải thiện nhân quyền, phục vụ xã hội. Loại con cái nhà nghèo thành tài trở về cũng sẽ chỉ giữ được những chức vụ nhỏ trong guồng máy xã hội (trừ khi gia nhập đảng CS), thành ra chí hướng cải thiện nhân quyền chẳng có cơ thành tựu. Xin Ông Đại sứ cứ nhìn xem ông Nguyễn Thiện Nhân, một người từng tốt nghiệp tiến sĩ tại Hoa Kỳ và đang giữ chức bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo CSVN. Thế mà ông ta đã đạt thành quả gì ngoài việc "thúc đẩy nhanh chóng sự xuống dốc đến mức đáng xấu hổ của nền giáo dục Việt Nam, trong năm 2007" với danh hiệu "Nhân vật tệ hại nhất năm 2007" do các trang blog quốc nội bình bầu và gần đây nhất lại bị một số trí thức trong nước gọi là "kẻ dở khôn dở dại"!!!

b- Nếu là việc giúp thay đổi tận căn nền giáo dục ngày càng sa sút của Việt Nam thì đó là điều Ông Đại sứ xem ra chưa quan tâm, nhưng đây mới là chuyện cốt yếu. Với kinh nghiệm và kiến thức, Ông hẳn biết rằng nền giáo dục tại các quốc gia CS, cụ thể là Việt Nam, từ trước tới nay chú trọng "hồng hơn chuyên", dạy dỗ tính gian dối và dung túng thói bạo hành, đào tạo ra những tôi trung phục vụ cho đảng hơn là những công dân tự do cho đất nước, nhồi sọ cho học sinh ngay từ thơ bé lòng kính yêu Hồ Chí Minh, tay gian hùng, kẻ đã đem đến bao tai họa cho đất nước Việt Nam (Nền giáo dục Hoa Kỳ có dạy học sinh kính yêu đặc biệt một vị tổng thống nào chăng, ngay cả tổng thống George Washington, cha già dân tộc của Hoa Kỳ?). Nền giáo dục đó cho tới nay vẫn lâm cơn khủng hoảng triền miên với một chương trình nặng nề, từ chương, thay đổi xoành xoạch, một bộ sách giáo khoa độc quyền nhưng biên soạn cẩu thả, đầy xuyên tạc và bán giá đắt, một hàng ngũ giáo viên mà vô số thiếu khả năng và thiếu tư cách, một hệ thống trường ốc mà đa phần xập xệ, ít tiện nghi, ít phương tiện, một chính sách quản lý điều hành loại trừ sự tham gia của các tôn giáo đầy khả năng và thiện chí. Nền giáo dục đó đang khiến cho hàng triệu học sinh bỏ học vì thâu học phí và tăng học phí thường xuyên, đang trói buộc sinh viên trong vòng kiềm tỏa của chế độ qua việc tăng học phí ngất trời để rồi cho mượn tiền trang trải. Nền giáo dục đó đã từng hăm dọa các học sinh sinh viên yêu nước chống Trung Quốc xâm lược, đang loại trừ những thầy giáo như Vũ Hùng vì đấu tranh cho dân chủ, như Đỗ Việt Khoa vì phanh phui các tiêu cực học đường, những cô giáo như Nguyễn Thị Bích Hạnh vì dám dạy cho học sinh tinh thần độc lập.

Vốn đã hưởng một nền giáo dục rất tiến bộ trong một quốc gia rất dân chủ, Ông Đại sứ hẳn hiểu rằng nếu không có một nền chính trị dân chủ thì nền giáo dục chẳng đem lại kết quả gì. Có kiến thức rộng, có bằng cấp cao, người ta cũng bị biến thành nô lệ hay tự biến thành nô lệ, bị biến thành kẻ hèn hay tự biến thành kẻ hèn trong chế độ độc tài ấy mà thôi. Thành ra, điều quan trọng nhất mà Ông, đại diện cho một chính phủ dân chủ hàng đầu, cần làm là giúp dân chủ hóa nền giáo dục tại Việt Nam, hay nói đúng hơn, rộng hơn, sâu hơn, là giúp dân chủ hóa nền chính trị tại Việt Nam trước đã.

Xin Thượng Đế ban phúc lành cho Ông Đại sứ và cho Hoa Kỳ.

Đại diện Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền

- Linh mục Têphanô Chân Tín, Dòng Chúa Cứu Thế, Sài Gòn

- Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải, Tổng Giáo phận Huế

- Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý, Tổng Giáo phận Huế (đang ở tù)

- Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Giáo phận Bắc Ninh (đang bị quản thúc)

--------------------Phụ lục--------------------

Người Việt Cali thất vọng với Đại sứ Michael Michalak

Hà Giang, thông tín viên RFA

08-06-2009

Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Michael Michalak, nhân dịp về thăm Hoa Kỳ, đã có các cuộc gặp gỡ với Cộng đồng người Mỹ gốc Việt, để cập nhật tin tức về mối quan hệ giữa hai quốc gia.

Chuyến viếng thăm Nam California lần thứ ba của ông Michael Michalak, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam cuối tuần qua đã được đánh dấu bằng hai buổi họp mặt với cộng đồng người Việt tại quận Cam vào tối thứ Sáu và thứ Bẩy ngày 5 và 6 tháng Sáu.

Nhận định của ngài Đại Sứ về tự do tôn giáo và nhân quyền tại Việt Nam đã tạo nên những tranh luận rất sôi nổi ngay trong buổi họp và nhiều phản ứng rõ nét của nhiều giới trong cộng đồng sau đó. Hà Giang, thông tín viên đài Á Châu Tự Do tại California đã tham dự cả hai buổi họp này và gửi về bài tường trình như sau:

Nhân quyền tại Việt Nam

Buổi thảo luận với chủ đề "Nhân Quyền VN Ngày Nay" giữa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông Michael Michalak và cộng đồng người Việt tại quận Cam, Nam California vào tối thứ Sáu vừa qua đã được đài SBTN trực tiếp truyền hình.

Sự tham dự đông đảo của đại diện các tôn giáo, hội đoàn, giới truyền thông và nhiều nhân sĩ trong vùng, đã nói lên sự quan tâm sâu xa của người Việt hải ngoại về tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Hai dân biểu liên bang là bà Lorretta Sanchez và ông Dana Rohrabacher đã mở đầu cuộc thảo luận bằng lời chia xẻ quan ngại của họ về sự thiếu tự do thông tin, và tự do tôn giáo tại Việt Nam.

Lời chào mừng bằng tiếng Việt của Đại Sứ Michael Michalak đã tạo cho người tham dự những nụười thoải mái hiếm hoi trong buổi thảo luận đã nhanh chóng trở thành rất sôi nổi: "Xin chào các bạn, tôi rất vui tham gia sự kiện này, nhưng tôi học tiếng Việt, nhưng tôi chưa có thể nói chuyện tiếng Việt, vì thế tôi phát biểu tiếng Anh."

Đại Sứ Michael Michalak tóm lược về tình trạng nhân quyền, kết quả của việc hợp tác kinh tế, và ông hân hoan cho biết dù chỉ mới phục vụ được một nửa nhiệm kỳ tại Việt Nam, nhưng ông đã đạt được chỉ tiêu về việc nâng cao con số du học sinh từ Việt Nam vào nước Mỹ lên đến hơn 12 ngàn sinh viên.

Trả lời câu hỏi là việc gia tăng số du học sinh sẽ cải thiện tình hình nhân quyền tại Việt Nam như thế nào, ông đại sứ phát biểu: "Giáo dục sẽ giúp phần cải thiện nhân quyền đơn giản là vì khi người ta càng hiểu biết nhiều về thế giới xung quanh, thì họ lại càng có những chọn lựa khôn ngoan hơn, và tôi tin rằng họ sẽ tất nhiên có những quyết định có lợi ích cho việc cải thiện nhân quyền."

Dân biểu Dana Rohrabacher hoàn toàn phản bác quan điểm này: "Tôi không cho là việc đè nén nhân quyền tại Việt Nam xẩy ra là vì người dân thiếu hiểu biết. Nguyên nhân của sự chà đạp nhân quyền là vì có một nhóm người nhất quyết giữ lấy quyền cai trị. Kể cả người cùng đinh nhất trong xã hội cũng hiểu rất rõ rằng họ bị đàn áp, rằng họ không có quyền tự do ngôn luận. Các ông giáo sư đại học hiểu rằng nếu họ không được tự do chỉ trích nhà cầm quyền thì sẽ bị mất việc. Việc có hay không có nhân quyền không dựa vào dân trí, mà là do chính sách của nhà cầm quyền".

Tự do Tôn giáo?

Nhiều câu hỏi của đồng bào nêu lên về những gì mà họ cho là vi phạm tự do tôn giáo tại Việt Nam, đã nhanh chóng đưa buổi thảo luận trở về việc đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC, tức danh sách những quốc gia cần phải được quan tâm đặc biệt vì vi phạm tự do tôn giáo.

Về điểm này, Đại Sứ cho biết: "Quan điểm của tôi về tự do tôn giáo hơi khác với những quan điểm đã được quý vị phát biểu ở đây ngày hôm nay. Quý vị đã biết là Bộ Ngoại Giao cho rằng hiện giờ không có đủ bằng chứng để chúng tôi đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC." Lời tuyên bố này đã khiến nhiều người trong cử tọa ồ lên vì không giấu được sự thất vọng và không đồng ý.

Trong buổi thảo luận chiều hôm sau, dân biểu liên bang Ed Royce đã đơn cử trường hợp của Mục Sư Nguyễn Công Chính, một bằng chứng cụ thể về việc chà đạp tự do tôn giáo tại Việt Nam đã xẩy ra từ nhiều năm nay.

Ông nói: "Nhiều người trong chúng ta rất quen thuộc với tình trạng của Mục Sư Nguyễn Công Chính, người đã bị công an địa phương đánh đập rất tàn nhẫn chỉ vì những sinh hoạt tôn giáo và nhân quyền của ông. Tấm hình của ông mặt bê bết máu đã nói với chúng ta rất nhiều. Tôi đã đưa tấm hình này cho về các đồng nghiệp của tôi xem. Đó là tình trạng tự do tôn giáo tại Việt Nam hôm nay."

Đài Á Châu Tự Do đặt câu hỏi về các tiêu chuẩn được dùng để đưa một quốc gia vào danh sách CPC, và làm thế nào để đo lường sự cải thiện tự do tôn giáo? Đại Sứ Michael Michalak trả lời: "Muốn đặt một quốc gia vào danh sách CPC đòi hỏi nhiều điều kiện. Tôi không thấy chúng ta có ích lợi gì trong việc đưa Việt Nam trở lại danh sách này."

Thất vọng...

Sau buổi thảo luận, ký giả Kiều Mỹ Duyên, phát biểu: "Chúng tôi trả lời với tính cách là một người trong cộng đồng Việt Nam quan tâm đến nhân quyền ở Việt Nam. Chúng tôi là công dân của Hoa Kỳ, chúng tôi đều bỏ phiếu, chúng tôi cũng có thể đề nghị với chính phủ Hoa Kỳ là đưa ông Đại Sứ này trở về Hoa Kỳ".

Những câu hỏi của những ký giả như là Đinh Quang Anh Thái, Hà Giang, Phong Lê Vũ, có những câu ông tránh né không có trả lời. Những câu tránh né trả lời của ông Đại Sứ Hoa Kỳ, cũng như những lời mà ông có vẻ bênh vực cho Việt Nam làm chúng tôi phẫn nộ. Và câu mà ông nói như thế này, "Các anh có thể viết thơ cho ông Tổng Thống Obama để "take me out", đem tôi ra khỏi Việt Nam".

Nói chung, dư luận cảm thấy thất vọng với thông điệp của Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam trong chuyến viếng thăm Nam California của ông lần này.

(Hà Giang, thông tín viên RFA)


Thư gửi Ngài Đại Sứ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ Tại Hà Nội

Ms Thân Văn Trường 12-06-2009

Kính gửi:

Ngài Đại sứ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ tại Hà Nội Michael Michalak

Về vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam

Thưa ngài Đại sứ, tôi hân hạnh viết thư cho cho ngài Đại sứ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, một quốc gia có 44 đời Tổng Thống đặt tay trên Kinh Thánh để tuyên thệ nhậm chức; một quốc gia có phương châm, nhưng trước hết, IN GOD WE TRUST.

Vậy nên, Hoa kỳ trở nên một quốc gia văn minh hàng đầu thế giới, nhờ tự do tôn giáo. Tôi hân hạnh được tới thăm tư gia của ngài ở số 18 Tôn Đản, Hà Nội, để có dịp tiện biếu ngài cuốn Kinh Thánh quí báu vô ngần, bản tiếng Việt. Tôi cho rằng Quyển Sách ấy đem hai dân tộc Việt, Mỹ xích lại gần nhau hơn, bằng chứng là hai bản Tuyên ngôn 1776 và 1945 bất hủ.

Thưa ngài đại sứ! Tôi thật sự thất vọng khi theo dõi phát biểu của ngài tại Cali hôm 6/6, về tự do tôn giáo tại Việt Nam, qua đài RFA. Dường như ngài thấy buồn nản vì nhiệm kỳ công tác quá dài ở Việt Nam, một quốc gia bạo ngược và ô nhiễm môi trường? Tôi thật sự kinh ngạc khi ngài đại sứ thách thức thính giả, rằng họ có thể đề nghị Tổng thống Hoa Kỳ cho ngài "take me out" Việt Nam.

Tôi thành thật lấy làm tiếc về những lời phát biểu tiêu cực của ngài. Nếu thực sự sống ở Việt Nam quá khó khăn cho ngài, tôi nghĩ ngài có thể dùng cách khác để ra khỏi Việt Nam thì hơn. Ngài cho rằng "Bộ ngoại giao Mỹ không đủ bằng chứng để đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC" là thiếu thực tế. Tôi tin rằng là một người Mỹ chân chính, ngài thừa hiểu rằng Việt Nam chúng tôi chỉ có tự do tôn giáo, một khi điều 4 Hiến pháp hiện hành được phế bỏ. Mọi cuộc đàn áp tôn giáo ở Việt Nam chúng tôi, đều bắt nguồn từ đều 4 hiến pháp cộng sản.

Tôi tin rằng là người Mỹ, ngài biết điều đó.

Tôi cho rằng không phải thiếu bằng chứng để đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC, nhưng chính là ngài đại sứ đã thiếu trách nhiệm hoặc một điều gì đó tệ hơn thế. Nhân dịp này, xin cho tôi nhắc lại một số trường hợp đàn áp tôn giáo cụ thể mà chính tôi đã bày tỏ cho các viên chức của ngài, cũng như chính mình ngài.

1/ Trường hợp chấp sự Hội thánh Đấng Christ của người Khờ me tại Trà Vinh, Thạch Thanh Nô bị công an đánh chết sau buổi nhóm cầu nguyện Chúa nhật ngày 5/4/2009. Dưới áp bức của công an, gia đình và Hội Thánh đã buộc phải hỏa táng chấp sự Thạch Thanh Nô sau ba giờ bị đánh chết. Bộ công an phủ nhận Thạch Thanh Nô là Cơ đốc nhân va cho rằng Nô tự ngã xe máy và chết. Nhưng Hội Thánh có đầy đủ hình ảnh lễ báp tem và chứng cớ công an khủng bố chấp sự Thạch Thanh Nô vì niềm tin tôn giáo, 69 người khác gồm mục sư, truyền đạo và tín hữu Hội thánh Đấng Christ của người Khờ me bị hành hung, chỉ vì thờ phượng Chúa.

2/ Mục sư Nguyễn Công Chính và gia đình ông bị đánh đập thường xuyên suốt nhiều năm qua, chỉ vì ông cứ hầu việc Chúa giữa vòng các dân tộc Việt Nam. Bản thân mục sư Chính bị đánh dập mắt, vợ bị đánh chảy máu, con bị tông xe nứt sọ… rồi không cấp chứng minh thư, hộ khẩu, không khai sinh cho con để được đi học. Hiện bay giờ công an bao vây nhà mục sư Chính, đi ra chợ cũng không cho đi, cũng không cho tín đồ tới nhà, nghĩa là nội bất xuất, ngoại bất nhập. Vừa qua, Bộ công an bắt Ms Chính 12 ngày (từ 14/5 đến 26/5) không có lệnh bắt, cũng không có lệnh tha.

3/ Mục sư nhiệm chức Hmrek (còn gọi là Y Brek, Siu Ybrek), quản nhiệm Hội thánh Đấng Christ tại xã Ia khươl, huyện Chư pẳl, tỉnh Gia Lai. Ông bị liệt và câm, trở về từ xà lim Ba Sao, Nam Hà sau nhiều năm tù, nhưng không có giấy ra trại. Xe cứu thương của trại tù đưa về trong tình trạng gần chết, hiện chúng tôi đưa đến điều trị tại Phòng Chẩn trị Y học cổ truyền Thiên An, 70/5, kp 9, P.Tân Biên, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

4/ Giáo sĩ Lê Duy Bắc bị công an đánh gẫy tay giữa thủ đô Hà Nội, bây giờ khối kim loại bó tạm cánh tay của công an còn nằm trong tay giáo sĩ. Thầy Bắc từng bị công an đánh trước nhà khách chính phủ Việt Nam, bên hồ Gươm cách nhà riêng của ngài, chắc không quá 1 km. Giáo sĩ Lê Duy Bắc bị công an Hà Nội đánh nhiều lần, chính tay tôi đã viết thư cho ngài, cả thế giới này biết, tôi không nghĩ là ngài quên.

5/ Trường hợp cá nhân tôi (mục sư Thân Văn Trường) bị ngược đãi rất nhiều. Tôi đã bày tỏ trực tiếp với ngài. Tôi vẫn còn nhớ lời ngài hứa với tôi hôm 23/10/2007, rằng ngài quan tâm và can thiệp giùm tôi. Từ đó cho đến bây giờ tôi không được cấp hộ chiếu, dù đã thu tiền, đã xét duyệt bởi công an. Tôi bị chính quyền cướp đất nhà, dù đã trả tiền đầy đủ, chỉ vì niềm tin tôn giáo mà không được cấp giấy chủ quyền đất như những công dân khác. Công an vẫn thường xuyên bắt bớ tôi mà không có lệnh bắt. Nhà nước vẫn không bồi thường cho tôi theo luật, do đi tù hai lần oan sai v. v…

Đối với Công giáo, Phật giáo… cũng bị đàn áp nặng nề. Nếu cứ từng việc đàn áp tôn giáo mà liệt kê ra, tôi tưởng không có đủ giấy mực để viết.

Ngài cũng phát biểu cách kỳ cục rằng "tôi không thấy chúng ta (Mỹ) được lợi gì trong việc đưa Việt Nam trở lại danh sách này". Phải chăng vì quyền lợi dơ bẩn của nước Mỹ, mà ngài quên việc đàn áp tôn giáo?

Dường như nước Mỹ ngày nay đang đi xuống, vì cớ tội lỗi của nước Mỹ, vì cớ thiếu hụt lòng tin kính thưở ban đầu lập quốc. Cách đây 10 năm, 100 USD ở Việt Nam ăn hai chỉ vàng, bây giờ không được một. Nhưng điều đáng mừng, hàng chữ IN GOD WE TRUST vẫn còn nguyên đó. Nếu nước Mỹ biết ăn năn và lìa khỏi điều ác, tôi tin tưởng rằng Đức Chúa Trời tiếp tục ban phước cho nước Mỹ thịnh vượng và văn minh, để dẫn dắt thế giới này tiến lên phía trước.

Nguyện Đức Chúa Trời ban phước cho ngài, như Chúa đã ban phước cho chức vụ của Thánh Paul, trong nhiệm kỳ khâm sai của Đấng Christ trên trần gian này. Xin ngài đừng buồn chán và sợ hãi, nhưng hãy can đảm bước đi cách hẳn hoi, như giữa ban ngày.

TÔN VINH ĐỨC CHÚA TRỜI, AMEN!

Kính thư

Mục sư Thân Văn Trường

Địa chỉ: Ấp Dưỡng Đường, xã Suối Tre,

Long Khánh, Đồng Nai

Đt: 0907872617

Đại sứ Michael Michalak gặp các tổ chức Việt Nam hải ngoại ở Washington

Thanh Quang, phóng viên đài RFA

18-06-2009

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/
Michael-michalak-met-with-various-vietnamese-
american-representatives-in-washington-area-06182009164514.html

Thứ Bảy vừa rồi (13-06-2009), Đại sứ Mỹ tại VN, ông Michael Michalak, nhân chuyến sang thăm vùng Thủ đô Washington, Hoa Kỳ, đã gặp giới lãnh đạo tôn giáo, cộng đồng VN, Liên hội Cựu Chiến sĩ VNCH cùng đại diện các tổ chức văn hóa, xã hội, chính trị và giới truyền thông.


Photo by Đỗ Hiếu RFA

Đại sứ Mỹ tại VN, ông Michael Michalak và BS Nguyễn Quốc Quân, Chủ tịch Hội đồng Quản trị của Tổ chức Quốc tế Yễm trợ Cao trào Nhân bản VN

Ba mục tiêu chính của ông Đại sứ Mỹ tại VN

Cuộc gặp gỡ đã diễn ra tại tư gia BS Nguyễn Quốc Quân, Chủ tịch Hội đồng Quản trị của Tổ chức Quốc tế Yểm trợ Cao trào Nhân bản VN, khi Đại sứ Michael Michalak được đại diện cộng đồng VN và giới truyền thông hỏi về nhiều vấn đề liên quan các lãnh vực gây chú ý hiện giờ tại VN, như nhân quyền, tôn giáo, dự án khai thác bauxite Tây Nguyên, mối quan hệ ngày càng căng thẳng giữa VN và TQ…

Mở đầu cuộc nói chuyện, Đại sứ Michalak cho biết: Rằng ông hiện ra sức xúc tiến trọng trách như ông đã hứa cách nay 2 năm tại tư gia BS Nguyễn Quốc Quân, đó là, thứ nhất, tiếp tục làm việc với chính phủ VN về vấn đề nhân quyền; thứ nhì, ra sức củng cố mối quan hệ hỗ tương Mỹ-Việt; thứ 3 là bắt đầu thiết lập một chương trình giáo dục tiên tiến giữa Hoa Kỳ và VN. Và ông tin rằng ông đã đạt được tiến bộ trong tất cả 3 mục tiêu đó.

Nói chung, về lãnh vực nhân quyền, tôn giáo, Đại sứ Michalak cho hay: Đại ý ông nói rằng phía Hoa Kỳ tiếp tục kế họach đối thọai về nhân quyền với VN, nêu lên tất cả những vấn đề quan trọng như tự do báo chí, lập hội… trong khi hợp tác chặt chẽ với các sứ quán khác tại VN để giúp xúc tiến vấn đề này.

Ông Michalak nói thêm rằng mới đây ông nhận được cam kết từ phía chính phủ VN là sẵn sàng hợp tác với Toà Đại sứ Mỹ về trợ giúp kỹ thuật liên quan luật bảo vệ người tố cáo tham nhũng, mà ông hy vọng sẽ giúp mở rộng được tự do báo chí tại VN.

Đại sứ Mỹ nói thêm rằng một trong những chủ đề mà phía Hoa Kỳ chú trọng là không những đối thọai với VN về nhân quyền – và cả tệ nạn tham nhũng, mà còn hội họp với những nước viện trợ quan trọng cho VN về vấn đề này.

Ông Michalak nhân tiện nhắc lại thỏa thuận giữa VN và Nhật Bản, nước viện trợ vốn ODA hàng đầu cho VN, qua đó VN hứa không để tái diễn vấn đề tham nhũng như vụ ông Hùynh Ngọc Sĩ, viên chức giao thông cao cấp.

Minh bạch rõ ràng giữa tôn giáo và chính trị

Theo đại sứ Mỹ, thì cần phải minh định rõ rằng đạo luật tự do tôn giáo chỉ đề cập tới vấn đề tự do tôn giáo; nó không nhất thiết liên quan đến nhân quyền. Ông Michalak lưu ý rằng có một sự khác biệt rõ rệt giữa những người bị bắt vì bày tỏ quan điểm chính trị và những người đi lễ nhà thờ vào Chủ Nhật.

Ông nhắc lại là mỗi năm Bộ Ngọai giao Hoa Kỳ có cuộc duyệt xét và công bố bản phúc trình về tự do tôn giáo, cứu xét các nước trên thế giới xem có đáp ứng những điều kiện quy định trong Đạo luật về Tự do Tôn giáo hay không để từ đó đưa hay không đưa những nước ấy vào danh sách quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo.

Đại sứ Michalak nhận xét rằng ngay trong lúc nầy, ông không tin là có đủ bằng chứng để đưa VN trở lại danh sách CPC, tức những nước cần quan tâm đặc biệt về đàn áp tôn giáo. Nhưng, vẫn theo Đại sứ Mỹ, thì phía Hoa Kỳ tiếp tục duyệt xét hàng năm, để, nếu có đủ bằng chứng, hẳn sẽ đưa VN trở lại danh sách này.

Cũng liên quan tôn giáo, ông Michael Michalak nghĩ rằng hiện giờ Giáo hội Công giáo không dính líu đến chính trị. Ông nghĩ là Giáo hội tại VN phải ở ngoài phạm vi chính trị.

Và việc liên hệ chính trị thường phải đương đầu với hàng loạt thứ luật lệ không liên quan luật về tự do tôn giáo, khiến đương sự gặp nhiều rắc rối. Như trường hợp LM Nguyễn Văn Lý, theo ông, vì vượt qua ranh giới này khiến Cha Lý tiếp tục bị cầm tù và thế giới tiếp tục kêu gọi VN phóng thích LM Lý.

Đại sứ Mỹ, nhân trả lời một câu hỏi liên hệ cho biết thêm rằng ông không tin là có sự liên quan trực tiếp giữa Giáo hội Thiên chúa tại VN với Giáo hội Thiên chúa ở Ba Lan.

Vẫn liên quan vấn đề tôn giáo, ông Michalak cho hay rằng chính ông chưa có cơ hội gặp các chức sắc của đạo Cao Đài, nhưng nhân viên của ông đã gặp họ, đặc biệt là tại Tây Ninh. Theo ông thì phía Toà Đại sứ Mỹ không những tiếp xúc với Cao Đài, mà còn với Hoà Hảo cùng những giáo hội khác như Công giáo, Tin Lành.

Ông Michalak nhận xét rằng nói chung người dân VN hiện có cơ hội bày tỏ Đức Tin của mình nhiều hơn trước đây. Và phía Hoa Kỳ tiếp tục theo dõi sát diễn tiến này.

Quan hệ giữa VN và TQ

Về mối quan hệ giữa VN và TQ, đại sứ Mỹ nhận định là ông không nghĩ rằng TQ có thể tấn công VN vào bất cứ lúc nào. Mặc dù nhìn nhận rằng hiện mối quan hệ Việt-Trung rất phức tạp, nhưng theo ông, nói chung mối quan hệ này vẫn còn tốt đẹp, dù không nồng thắm nhưng cũng không phải là lạnh nhạt nhất thế giới.

Đại sứ Michael Michalak nhận thấy VN và TQ có chung một biên địa khá dài, khiến việc phân định biên giới khó khăn. Ông lưu ý rằng đại sứ VN tại Hoa Kỳ, ông Lê Công Phụng, từng thảo luận và đạt thỏa thuận với Bắc Kinh về vấn đề biên giới Việt-Trung trên bộ, nên ông Michalak đề nghị cử tọa, nếu có hỏi, hãy tìm ông Lê Công Phụng hỏi về vấn đề này thì thích hợp hơn.

Về vấn đề Biển Đông, Đại sứ Mỹ nhận xét: Ông nghĩ rằng Hoa Kỳ không bày tỏ lập trường nào cả về việc tranh chấp lãnh hải tại vùng này. Nhưng theo ông, phía Hoa Kỳ tin tưởng ở quyền tự do hàng hải cùng việc mở cửa thủy lộ. Và Hoa Kỳ sẽ thực thi quyền này bằng cách đưa tàu tới những thủy lộ đó. Và Hoa Kỳ sẽ có thêm biện pháp để bảo đảm và xúc tiến quyền tự do về hàng hải.

Liên quan vấn đề bauxite Tây Nguyên, Đại sứ Mỹ Michael Michalak nói: Ông nghĩ đây cũng là vấn đề phức tạp. Ông hy vọng, sau khi trở lại VN, ông sẽ sớm tìm cách tới Tây Nguyên để chính mình chứng kiến tình hình ở đó. Đại sứ Michalak hiểu rằng người dân VN – trong và ngoài nước – đều âu lo về dự án khai thác bauxite Tây Nguyên, nhất là chuyện TQ có dính líu trong kế họach này.

Đại sứ Michalak nghĩ điều hay nhất là chính phủ VN phải rất minh bạch về toàn bộ vấn đề, cho người dân biết có bao nhiêu công nhân TQ ở đó, những người TQ này làm việc có giấy tờ hợp lệ không, họ phải bảo đảm là sẽ trở về nước khi hoàn tất công việc. Tóm lại, theo Đại sứ Mỹ thì nhà cầm quyền VN phải minh bạch, chân thật về những gì đang diễn ra.

Giáo dục là chìa khóa mở tất cả các cửa

Một lãnh vực mà Đại sứ Michael Mikhalak cũng đặc biệt chú trọng là sự hợp tác giáo dục với VN. Đại ý nói rằng đây là vấn đề mà ông ưa thích nhất, vì nó tác động tới nhiều lãnh vực, từ chính trị, kinh tế đến xã hội…

Theo ông giáo dục hẳn là chìa khóa mở tất cả các cửa. Điều quan trọng là Hoa Kỳ sẵn sàng nỗ lực tối đa để giúp cải thiện hệ thống giáo dục của VN. Và đây là một trong những mục tiêu quan trọng của cơ quan giáo dục đặc nhiệm Việt-Mỹ.

Ông nhắc lại rằng ông đã hứa là trong vòng 3 năm đầu làm Đại sứ ở VN, ông sẽ ra sức tăng gấp đôi số sinh viên VN du học tại Mỹ. Và theo ông, thì hiện ông đã đạt được mục tiêu này.

Sau cùng, khi được hỏi sau 2 năm làm việc ở VN, vấn đề nào làm ông nhức đầu nhiều nhất. Đại sứ Michael Michalak cười lớn, và đáp rằng mọi vấn đề mà ông phải ứng phó đôi khi làm ông nhức đầu. Ông giải thích rằng người ta không mang đến cho ông những chuyện dễ dàng đâu. Những chuyện dễ có người khác giải quyết. Còn những vấn đề khó có ai giải quyết được thì họ giao cho ông.

Ông Michalak cho rằng nhân quyền là vấn đề mà ông và phía VN ít đạt được tiến bộ nhất. Rồi giáo dục cũng là vấn đề nhiều thách thức, nhưng, theo ông, nó cũng đem lại nhiều thành quả đáng kể.

Các vấn đề ông bận tâm có cả việc phát triển kinh tế, phúc lợi xã hội cho người dân Việt Nam. Nhưng, theo đại sứ Mỹ Michael Michalak, nhân quyền và giáo dục là 2 vấn đề làm ông nhức đầu nhiều nhất.



Monday, June 22, 2009

 

Kháng thư số 25: Đòi hỏi nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam bảo vệ ngư trường, ngư dân, ngư nghiệp Việt Nam (và trả tự do cho nhóm Luật sư Lê Công Định)


Khối 8406

Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006
Web: http://khoi8406vn.blogspot.com/
Email: vanphong8406@gmail.com




Kháng thư số 25:

Đòi hỏi nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam
bảo vệ ngư trường, ngư dân, ngư nghiệp Việt Nam
(và trả tự do cho nhóm Luật sư Lê Công Định)


Việt Nam, ngày 21-06-2009

Kính thưa toàn thể Đồng bào quốc nội và hải ngoại,
Kính thưa Cộng đồng Dân chủ trên toàn thế giới.

Kể từ đầu năm nay, đặc biệt từ trung tuần tháng 5-2009, nhiều biến cố dồn dập trên Biển Đông đã gây kinh hoàng cho ngư dân Việt Nam, gây lo ngại cho nhà cầm quyền CSVN và gây phẫn nộ cho tất cả đồng bào Việt Nam từ trong ra tới ngoài nước lẫn Cộng đồng Dân chủ năm châu.

I- Những sự kiện

1- Phía ngư dân:
Mở đầu là vụ việc ngày 15-01-2009, Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh Phú Yên thông báo: một tàu đánh cá của ngư dân địa phương đã bị một tàu lạ đâm chìm ở vùng biển cách mũi Đại Lãnh về phía Đông Nam khỏang 80 hải lý. Toàn bộ 9 ngư dân trên tàu bị mất tích. Đến ngày 14-03, tàu đánh cá mang số hiệu BL-03942-TS ở huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu cũng bị một tàu lạ đâm chìm. Lúc đó, Ban phòng chống lụt bão tỉnh Bạc Liêu xác nhận: vụ tai nạn này đã làm hai ngư dân là Cô Văn Đủ và Nguyễn Văn Khương tử nạn. Hai người khác là Nguyễn Văn Đấu và Huỳnh Văn Nhất mất tích. (x. RFA 24-05-2009).
Ngày 26-04, chiếc tàu cá QNg-94734-TS thuộc thôn Phần Thất, xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, khi đang trên đường tìm kiếm ngư trường thì bị 2 tàu Trung Quốc (số hiệu 44061, 44831) đến gần nổ súng, buộc phải dừng lại. Liền sau đó, 2 chiếc ca nô xuất phát từ các tàu trên chở theo khoảng 10 người mang súng ‘đổ bộ’ lên tàu cá Việt. Họ lục lọi khắp tàu, giở hầm thấy cá liền bắt các thuyền viên chuyển qua ca nô để chở về tàu ‘trắng’ trên 3 tấn cá mà tàu VN đã đánh bắt được sau 6 ngày cật lực. Trước khi bỏ đi, những người Trung Quốc còn ‘đe dọa’ bằng cách lấy lưỡi lê súng AK đâm lủng 1 thúng chai... (x. Thanh Niên, 06-06-2009)

Đầu tháng 5, một tàu ngư dân thuộc huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, khi đang vây bắt một đàn cá ở vị trí 109 độ kinh đông và 17 độ vĩ bắc, cách bờ chừng 65 hải lý thì bất ngờ bị một tàu nước ngoài đến yêu cầu dỡ lưới đi nơi khác, nếu không sẽ gặp rắc rối (x. http://www.tuoitre.com.vn ngày 02-06-2009). Rạng sáng ngày 19-05, một tàu câu mực của ngư dân xã Bình Chánh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, đang khi hành nghề ở 10'54 độ vĩ bắc, 111 độ kinh đông, trong khu vực không xa quần đảo Hoàng Sa, thì đã bị một tàu lạ tông cho chìm, khiến 26 thuyền viên rơi xuống biển (x. http://www.blogosin.org/?p=925 ngày 08-06-2009). Cũng cùng ngày 19-5 tàu cá QNg-94734-TS thuộc huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi bị một tàu nước ngoài tấn công ngay trên ngư trường, lấy đi hơn một nửa số cá vừa đánh bắt được. Đã vậy, trước khi bỏ đi, các thuyền viên tàu nước ngoài còn dùng lưỡi lê đâm thủng một chiếc thuyền thúng dùng làm thuyền cứu nạn. (x. http://www. vietnamnet.vn/kinhte/2009/06/850893/)

Sáng ngày 24-05, tàu QNg-8793-TS thuộc thôn Hải Tân, xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, đang khi ngủ nghỉ sau cả đêm đánh cá bỗng giật mình hoảng hốt khi nghe tiếng hụ còi của tàu “trắng” mang số hiệu 44183 (Loại tàu tuần tra của Trung Quốc ngụy trang thành tàu kiểm soát đánh cá). Tất cả thuyền viên vùng dậy nổ máy chạy liền, nhưng chỉ được vài trăm mét thì tàu “trắng” đã tiếp cận. Lập tức, 4 người Trung Quốc cầm súng trèo qua tàu, ra hiệu các thuyền viên đứng dồn lại, lục lọi khắp người, khắp tàu và cuối cùng buộc các ngư dân chuyển khoảng 5 tấn cá - thành quả lao động nhiều ngày của họ - qua tàu “trắng” (x. Thanh Niên, ngày 6-06-2009).

Sáng ngày 03-06, 9 ngư dân xã Quỳnh Dị, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An đang đánh bắt cá trên chiếc tàu có số hiệu NA-4425-TS thì bất ngờ bị hai chiếc tàu lạ tấn công và truy đuổi, công kích bằng đá, chai bia, lọ nước… Bỏ lại lưới, họ chạy thoát thân được hơn 2 hải lý thì một chiếc đuổi kịp, đâm thẳng vào mạn tàu khiến con tàu bị nghiêng, hư hỏng nặng… (x. http://dantri.com.vn /c20/s20-329421/hai-tau-ca-la-tan-cong-9-ngu-dan.htm).

Ngoài ra, ngày 5-6-09, Vietnamnet, dựa theo báo cáo từ Sở Ngoại vụ tỉnh Quảng Ngãi, cho hay rằng chỉ riêng tỉnh này “tính từ 2005 đến quý I-2009, tổng số tàu thuyền và ngư dân bị nước ngoài bắt là 74 chiếc, 714 người, trong đó 33 chiếc với 373 người bị Trung Quốc bắt.” Nguồn tin này cho biết thêm: “Khi bị Trung Quốc bắt, thân nhân ngư dân phải nộp tiền chuộc từ 5-7 vạn nhân dân tệ (150-180 triệu đồng) mới đưa được ngư dân về nhà. Ngoài bị bắt ra, Quảng Ngãi cũng có 6 ngư dân bị nước ngoài bắn chết và bị thương năm 2007” (x. http://www.nguoi-viet.com/absolutenm /anmviewer.asp?a=96218&z=1 ngày 09-06-2009)

Chẳng những bị Trung Quốc ăn hiếp, ngư dân VN còn bị Malaysia bắt nạt. Trong 6 tháng đầu năm 2009, Malaysia đã bắt giữ 40 tàu cá và 464 ngư dân của Việt Nam, trong đó mỗi ngư dân bị bắt sẽ bị phạt tới 100.000 ringgit, thuyền trưởng bị phạt tới 1 triệu ringgit (1 USD tương đương 3.5 ringgit). (x. http://vitinfo.com.vn/Muctin/Quocte/LA61256/default.htm)
Về ngư nghiệp, nhiều doanh nghiệp (DN) miền Trung cho hay họ đang nhìn về vùng nguyên liệu miền Nam để mong tồn tại. Tuy nhiên, các DN ở đây cũng đang "đói" nguyên liệu chế biến. Điển hình như Cty Thủy sản Nam Việt (Navico, An Giang), một "đại gia" trong ngành, nhiều năm liền dẫn đầu cả nước về kim ngạch xuất khẩu, nhưng hiện 3 nhà máy thủy sản được đầu tư công nghệ hiện đại của họ chỉ hoạt động 30%-40% công suất bởi không đủ nguyên liệu. Hoặc ở tỉnh Bà RịaVũng Tàu (vựa thủy hải sản lớn nhất Đông Nam bộ), hàng loạt DN lớn như Cty East Wind Vietnam (huyện Tân Thành, chế biến bột cá), từ đầu năm đến nay, chỉ thu mua được khoảng 1/3 nguyên liệu so với cùng kỳ năm ngoái, nên 3 dây chuyền chế biến có tổng công suất lên 350 tấn/ngày chỉ hoạt động được 20%... Thiếu nguyên liệu lại kèm theo suy thoái kinh tế là nguyên nhân khiến xuất khẩu thủy sản Việt Nam 5 tháng đầu năm 2009 chỉ đạt chỉ đạt xấp xỉ 30% so với kế hoạch 4 tỷ USD xuất khẩu năm nay. (x. Việt Báo 12-06-2009)

2- Phía Trung Quốc
Kể từ năm 2001, sau hiệp định lãnh hải Việt Trung ký ngày 25-12-2000, và đặc biệt từ đầu năm nay, Trung Quốc đã cử nhiều tàu hải quân đến vùng Biển Đông để “tuần tra”. Họ đã ngăn chận, đánh đuổi, cướp cá, bắt người, tịch thu thuyền, thậm chí giết chết ngư dân Việt Nam như đã thấy trên kia. Cách đây hơn một tháng, họ lại ngang nhiên ra lệnh cấm các bên không được đánh cá trong một giai đoạn do họ áp đặt từ ngày 16/05 tới ngày 01/08 (mùa đánh cá của ngư dân Việt Nam) tại vùng biển ''kéo dài từ 12 độ vĩ bắc lên trên 20 độ vĩ bắc, tức từ vùng biển Trường Sa, Hoàng sa của Việt Nam đến đảo Hải Nam của Trung Quốc'', một vùng rộng đến 128.000 km2, nghĩa là toàn thể vịnh Bắc Bộ. (x. Lao Ðộng, thứ ba 02-06-2009).

Ngày 06-06, hai hôm sau phản ứng của Việt Nam, Bắc Kinh loan báo chiếc Ngư Chính 44183, tàu kiểm soát đánh cá lớn nhất của họ và 7 chiếc Ngư Chính khác nhỏ hơn, đến tuần tiễu, thi hành lệnh cấm. Tới ngày 09-06, Tần Cương, phát ngôn nhân bộ Ngoại giao Trung Cộng tuyên bố: “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở biển Đông, gồm cả quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và những vùng biển lân cận. Lệnh cấm đánh bắt cá trên biển Đông của Trung Quốc là một biện pháp hành chính thông thường và hợp lý của Trung Quốc nhằm bảo tồn nguồn lợi hải dương ở khu vực này của Trung Quốc”.

3- Phía nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam
Đang khi ngư trường dậy sóng, ngư dân điêu đứng kinh hoàng và ngư nghiệp thất bát lụn bại vì bị Trung Quốc đánh phá, đặc biệt từ đầu năm nay, thì theo Thông tấn xã Việt Nam, ngày 25-05, bên lề Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ÁÂu lần thứ 9, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao CSVN Phạm Gia Khiêm vẫn có cuộc gặp với Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì. Hai bên cho rằng “quan hệ hai nước thời gian vừa qua tiếp tục có những tiến triển quan trọng nhằm triển khai có hiệu quả quan hệ 'đối tác hợp tác chiến lược toàn diện'. Hai bên nhất trí sẽ phối hợp chặt chẽ để nhanh chóng hoàn tất những công việc còn lại trong công tác phân giới cắm mốc biên giới lãnh thổ, đồng thời tích cực đàm phán về các vấn đề trên biển. Hai bên khẳng định sẽ phối hợp chuẩn bị tốt các hoạt động trong “năm Hữu nghị ViệtTrung 2010”, góp phần tăng cường tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân hai nước; đồng thời tin tưởng rằng với cố gắng chung của cả hai bên, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện ViệtTrung nhất định sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa”. (x. TTXVN 25-05-2009).

Qua hôm sau, ngày 26-05, Tổng Bí thư đảng CSVN Nông Đức Mạnh lại tiếp viên Bộ trưởng Ngoại giao Trung Cộng này tại trụ sở trung ương đảng. Nông Đức Mạnh đã “đánh giá cao những đóng góp tích cực của Bộ Ngoại giao hai nước trong thời gian qua; mong rằng Bộ Ngoại giao hai nước tiếp tục tăng cường hợp tác, cùng nhau phấn đấu, đóng góp nhiều hơn nữa cho quan hệ hai nước Việt Nam-Trung Quốc mãi mãi là láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Ông ta còn khẳng định: “Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trước sau như một luôn coi trọng việc phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với TQ, vun đắp cho quan hệ đó ngày càng đơm hoa kết trái, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình và phát triển ở khu vực và trên thế giới” (x. http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30012&cn_id=342366).

Sau khi Trung Quốc tuyên bố lệnh cấm đánh cá nói trên, nhà cầm quyền CSVN đã phản ứng hết sức kỳ lạ. Thông tấn xã VN ngày 06-06 viết : “Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Dũng cho biết: hôm 04-06, Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn đã giao thiệp với Đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường, lưu ý việc phía Trung Quốc gần đây thực hiện lệnh cấm đánh cá tại một số vùng biển, trong đó có những khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông và tăng cường tàu tuần tra, bắt, phạt tàu cá tại những vùng biển này. Thứ trưởng cho rằng điều đó đã và đang ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của ngư dân Việt Nam tại ngư trường truyền thống của Việt Nam, gây bức xúc trong dư luận, không có lợi cho quan hệ hai nước, đề nghị phía Trung Quốc không có các hoạt động cản trở công việc làm ăn bình thường của ngư dân Việt Nam trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Đại sứ Trung Quốc đã hứa sẽ báo cáo về nước đề nghị của phía Việt Nam”. Và Trung Quốc đã đáp ứng đề nghị của Việt Nam cách nào thì như đã thấy trên kia.

Vậy mà đến ngày 12-6, Nông Đức Mạnh lại tiếp Đoàn đại biểu Trung cộng do ông Lý Nguyên Triều, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương dẫn đầu. Nông Đức Mạnh lại tiếp tục nhấn mạnh “chuyến thăm Việt Nam lần này của Đoàn thể hiện sự quan tâm và coi trọng của lãnh đạo cấp cao Trung Quốc đối với việc thúc đẩy quan hệ giữa hai Đảng, hai nước, là biểu hiện sinh động của việc xây dựng quan hệ đối tác tác chiến lược toàn diện ViệtTrung; đánh giá cao việc hai nước hợp tác có hiệu quả ở tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức nhân dân, đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện ViệtTrung Quốc lên một tầm cao mới”. Ông ta còn “cảm ơn sự giúp đỡ to lớn mà Đảng, nhân dân Trung Quốc đã, đang dành cho Việt Nam… khẳng định Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trước sau như một, luôn coi trọng và sẽ làm hết sức mình để gìn giữ và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền thống giữa hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông đặt nền móng và được các thế hệ lãnh đạo, nhân dân hai nước dày công vun đắp” (Theo TTXVN 13-06-2009)

Về phần Quốc hội CSVN khóa 12 kỳ 5 (từ 20-5 đến 19-06), thì chuyện Biển Đông dù gây xôn xao cho lắng cho cả nước, vẫn không được đưa vào nghị trình chính thức. Chỉ có một thành viên là đại tướng Lê Văn Dũng, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân VN, ra hành lang trả lời một phóng viên báo Vietnamnet ngày 11-06 xung quanh việc làm thế nào để ngư dân có thể đánh bắt cá an toàn trên vùng biển chủ quyền của VN. Được hỏi “Ngư dân hiện nay có thể yên tâm đánh bắt ở những vùng được xác định là chủ quyền của VN không? Lực lượng bảo vệ ở đó thế nào?" ông Dũng trả lời kiểu lấp lửng: «Lực lượng bảo vệ đầy đủ, tình hình vẫn tốt. Các tàu mà bị bắt hầu hết do không nhận biết được giữa vùng biển mênh mông là tàu có trên đúng vùng biển của mình hay không. Còn những nơi ổn định quanh Trường Sa hay vùng biển quanh khu vực dầu khí thì bà con vẫn rất an toàn. Vùng biển có các giàn khoan khai thác dầu khí hiện nay vẫn thuộc chủ quyền của mình» (x. Vietnamnet 12-06-2009).

II. Trước những sự kiện và thái độ như trên, Khối 8406 tuyên bố:

1- Kịch liệt lên án đảng và nhà cầm quyền CSVN
- vẫn tiếp tục ve vãn Trung Quốc, kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc, lân bang chuyên nuôi mộng thôn tính Tổ quốc, vẫn mù quáng tin tưởng khẩu hiệu «16 chữ vàng», mối quan hệ «4 tốt» đầy lường gạt, vẫn tiếp tục tiếp đón đại diện của cái quốc gia đang cùng lúc cấm cản giết hại đồng bào mình ngoài biển khơi, đang ngang nhiên cho thấy vô vàn dấu hiệu bộc lộ ý đồ đen tối của họ đối với nước Việt.

- vẫn tỏ ra khiếp sợ Trung Quốc trước những gì họ đã và đang làm cho ngư dân VN, kể từ vụ ngư dân Thanh Hóa, đang khi đánh cá trên biển VN, đã bị Trung Quốc bắn chết 9 người và làm bị thương 8 người ngày 8-1-2005 rồi hàng trăm vụ việc tương tự sau đó. Nay thì chỉ phản đối một cách đê hèn khiếp nhược bằng cách cho bộ ngoại giao đến giao thiệp (thực chất là xin gặp) đại sứ Trung Quốc (thay vì triệu ông ta đến bộ này), đề nghị Trung Quốc đừng ngăn cản hoạt động của ngư dân VN (thay vì gởi công hàm phản đối), rồi chỉ khuyến khích ngư dân lo tự bảo vệ là chính.

2- Kịch liệt lên án Quốc hội bù nhìn khóa XII của VN
- vẫn bình chân như vại suốt kỳ họp thứ 5 giữa lúc bao đau thương nguy hiểm đang xảy đến cho đồng bào ngoài biển cả, trên đất liền, cho những ngư dân bị cấm cản đánh cá, phải bán tháo bán đổ ngư cụ, cho những công ty xí nghiệp thủy sản gặp đình đốn trong chế biến, bị thua lỗ trong xuất khẩu.

- vẫn câm miệng không dám gọi thẳng tên «tàu Trung Quốc» mà chỉ dùng từ «tàu lạ» khi đề cập đến những sự cố đau thương cho ngư dân VN trên biển, rồi chỉ để cho một thành viên thủ thỉ chuyện biển Đông với một phóng viên duy nhất ngoài hành lang Quốc hội.

3- Quyết liệt đòi hỏi đảng và nhà cầm quyền CSVN
- phải bắt chước lân bang Philippin vốn từng mạnh mẽ phản đối -bằng lời nói và hành động- một lệnh cấm tương tự của Trung Quốc cách đây 10 năm (từ 1-6 đến 31-7-1999) : "Chúng tôi đang đánh bắt cá trong vùng lãnh hải của chúng tôi... Họ mới chính là người xâm phạm lãnh thổ của chúng tôi" (Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Orlando Mercado, theo Thông tấn xã Kyodo News của Nhật ngày 3-6-1999).

- phải noi gương các nước có chung vùng biển đánh cá với Trung Quốc như Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, vốn không bao giờ để cho ngư dân của mình bị Trung Quốc hăm dọa, trấn lột, sát hại. Phải phát triển và sử dụng lực lượng hải quân hùng mạnh để bảo vệ ngư dân và ngư trường, đồng thời để tìm cách chiếm lại hai quần đảo của Tổ quốc là Hoàng Sa và Trường Sa nếu cần thiết.

- phải nhanh chóng lên tiếng bênh vực và giải thoát hàng ngàn ngư dân VN đang bị Trung Quốc, Malaysia và nhiều nước khác trong vùng giam giữ từ bao năm qua, lấy lại tàu thuyền ngư cụ cho họ và nâng đỡ gia đình khốn khổ của họ.
- phải can đảm xé bỏ Công hàm bán nước năm 1958, Hiệp định lãnh hải (phân định vịnh Bắc Bộ) năm 2000 và Nghị định thư về hợp tác đánh cá trong Vịnh Bắc bộ năm 2004.

- phải cấp tốc đưa vấn đề «Trung Quốc lấn chiếm Biển Đông và cấm cản ngư dân Việt đánh cá trên biển Việt» ra trước Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.

4- Tha thiết kêu gọi toàn thể Đồng bào Việt Nam mọi giới trong và ngoài nước, các lực lượng Quân đội hãy chung tay bảo vệ và cứu nguy Tổ quốc bằng cách chống lại những kẻ nội thù bán nước trước khi chống lại kẻ ngoại thù cướp nước.

5- Nhân dịp này, Khối 8406 chúng tôi cũng tuyên bố :
- Những gì luật sư Lê Công Định và các bạn (Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long, Lê Thị Thu Thu, Trần Thị Thu) đã nói, đã viết, đã làm vì nhân quyền và dân chủ trong thời gian qua, kể cả việc tham gia các đảng phái nhằm chuẩn bị đấu tranh bất bạo động với đảng CS, đều là những việc làm chính đáng, cần thiết, đáng trân trọng.
- Việc bắt giam nhóm luật sư Lê Công Định dựa «theo Điều 88 Bộ Luật Hình sự, vì đã có những hành vi câu kết với các thế lực thù địch chống nhà nước CHXHCN Việt Nam» (một điều luật quái đản không hề có trong thế giới văn minh dân chủ) là sự vi phạm trắng trợn quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do lập hội theo Công ước quốc tế năm 1966 mà VN đã ký vào.

- Việc luật sư Lê Công Định tuyên bố nhận tội đã «vi phạm pháp luật theo điều 88 BLHS của nước CHXHCN Việt Nam» giữa lúc ông hoàn toàn hiểu biết rằng đó là một điều luật bất công phi lý, giữa lúc ông đang trọn vẹn nằm trong bàn tay sắt của công an vốn có những thủ thuật ép cung tinh vi, thâm độc và tàn bạo, giữa lúc chưa có một phiên tòa công khai minh bạch, việc «nhận tội» đó là hoàn toàn phi pháp, vô giá trị, không thể tin được và không thể chấp nhận được.

- Nhà cầm quyền CSVN phải trả tự do cho luật sư Định cùng các bạn của ông (như kể trên) ngay lập tức và vô điều kiện, đồng thời phải phục hồi danh dự cho tất cả họ.

Làm tại Việt Nam ngày 21 tháng 06 năm 2009.

Ban điều hành lâm thời Khối 8406.
1- Kỹ sư Đỗ Nam Hải, Sài Gòn, Việt Nam.
2- Trung tá Trần Anh Kim, Thái Bình, Việt Nam.
3- Linh mục Phan Văn Lợi, Huế, Việt Nam.
4- Giáo sư Nguyễn Chính Kết (đang vận động dân chủ tại hải ngoại)
(trong sự hiệp thông của linh mục Nguyễn Văn Lý, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và nhiều chiến sĩ dân chủ khác, hiện còn đang bị giam cầm trong lao tù cộng sản.)

 

Kháng thư số 24: Tố cáo Cộng sản Việt Nam về hiểm họa cho Trung Quốc khai thác bauxite tại Tây Nguyên

Khối 8406
Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006
Web: http://khoi8406vn.blogspot.com/
Email: vanphong8406@gmail.com

Add Image

Kháng thư số 24:

Tố cáo Cộng sản Việt Nam về hiểm họa
cho Trung Quốc khai thác bauxite tại Tây Nguyên.
Khẩn cấp phát động phong trào cứu nguy Đất nước!


Việt Nam ngày 15 tháng 03 năm 2009

Kính thưa toàn thể Đồng bào Việt Nam và Cộng đồng Dân chủ Thế giới,

Kể từ sau khi thủ tướng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng ký quyết định số 167 ngày 01-11-2007 cho phép các nhà thầu Trung Quốc thực hiện dự án kéo dài từ 2007 đến 2015 nhằm khai thác quặng bauxite và sản xuất nhôm công suất 1.2 triệu tấn/năm tại Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắc Nông), nhiều giới Đồng bào đã lên tiếng cảnh báo về những hiểm họa có thể xảy đến cho vùng Tây Nguyên và cho cả nước.

Trong cuộc họp báo đầu năm nay, vào ngày 04-02-2009, thủ tướng CSVN lại tuyên bố rằng việc khai thác bauxite tại Tây Nguyên là “chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước”, một lời tuyên bố cho thấy bộ Chính trị đảng CSVN, bất chấp những tiếng nói có uy tín trong lãnh vực khoa học, môi trường, văn hóa, xã hội, quân sự, an ninh, quốc phòng…, bất chấp tiếng nói đòi quyền sống của nhân dân, đặc biệt các Dân tộc thiểu số…, vẫn tiếp tục dự án này, vốn gây nhiều tranh cãi và tiềm ẩn nhiều nguy cơ rất lớn lao cho đất nước.

Theo ý kiến của các nhà khoa học và văn hóa (cụ thể qua bài “10 lý do đề nghị tạm dừng dự án bauxite Tây Nguyên” của Tiến sĩ Nguyễn Đông Hải, Nhà văn Nguyên Ngọc, Tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn ngày 13-01-2009) thì (1) việc triển khai các dự án bauxite là không cần thiết, (2) không làm tăng ngân sách địa phương, (3) không hề có hiệu quả kinh tế, (4) phải đầu tư xây dựng một hệ thống đường sắt và cảng biển lãng phí, (5) không an toàn về môi sinh, (6) không phù hợp với năng lực của Tập đoàn Công nghiệp than-khoáng sản Việt Nam là chủ đầu tư, (7) không đảm bảo sinh kế cho các đồng bào dân tộc thiểu số bản địa, (8) không phát triển bền vững Tây Nguyên, (9) không mang tính công khai minh bạch, (10) không tuân thủ Luật khoáng sản và Luật bảo vệ môi trường. Tóm lại là việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên chẳng có lời mà chỉ có lỗ, lỗ lớn về mặt kinh tế, môi sinh, văn hóa, xã hội, chính trị cho toàn vùng và toàn nước.

Rồi theo ý kiến của các nhà quân sự và chính trị (cụ thể qua lá thư của thiếu tướng CSVN Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu đại sứ tại Bắc Kinh, viết khoảng tháng 02-2009), thì việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên tiềm ẩn mối nguy về an ninh đất nước. Mới đây, Trung Quốc đã xây dựng căn cứ hải quân hùng mạnh ở Tam Á đảo Hải Nam không phải để chống kẻ thù xâm lược nào mà là để đe dọa Việt Nam và sẵn sàng chờ thời cơ thôn tính nốt Trường Sa của chúng ta, sau khi đã dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa năm 1974. Nay đảng và nhà cầm quyền CSVN lại để Trung Quốc khai thác bauxite ở Tây Nguyên thì sẽ có năm bảy nghìn hoặc một vạn công nhân hay quân nhân Trung Quốc (rồi có thể nhiều hơn nữa) đến cư trú và hoạt động tại đây, sẽ hình thành một "thị trấn Trung Hoa", một "căn cứ quân sự Trung Cộng" trên địa bàn chiến lược vô cùng xung yếu của Tổ quốc. Tất cả mọi chiến lược gia Việt Nam hay ngoại quốc từ xưa đến nay đều biết rằng Tây Nguyên là “nóc nhà của Đông Dương”, là yếu huyệt sinh tử, ai chiếm được nó là làm chủ toàn bộ Việt Miên Lào.

Vậy là đảng và nhà cầm quyền CSVN, từ trước tới nay, đã cam tâm nhượng cho Trung Quốc Ải Nam quan, nhiều cao điểm chiến lược ở biên giới Việt Trung là tiền đồn phía Bắc, quần đảo Hoàng Sa và một phần lớn quần đảo Trường Sa cùng chục ngàn cây số vuông biển ở Vịnh Bắc bộ là tiền đồn phía Đông. Mới đây, tháng 7-2008, CSVN lại im lặng trước việc Trung Quốc áp lực hãng dầu khí Mỹ Exxon Mobil phải rút lui, không được hợp tác với Việt Nam trong một dự án thăm dò ở lòng chảo đảo Côn Sơn, một dạng tiền đồn phía Nam của đất nước. Và bây giờ, dưới chiêu bài “khai thác mỏ bauxite”, CSVN đang âm mưu bán đứt Tây Nguyên, tiền đồn phía Tây hết sức quan trọng của Tổ quốc cho kẻ thù xâm lăng truyền kiếp của Dân tộc.

Từ đó chúng ta thấy rằng việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên chỉ là “diện”, là cái cớ bên ngoài, còn việc Trung Cộng chiếm hữu vùng đất đó làm căn cứ để thanh toán Việt Nam trong tương lai gần là “điểm”, là thực chất bên trong.

Chuỗi hành động lạ lùng và nguy hiểm này chỉ xuất phát từ một động cơ duy nhất: “mãi quốc cầu vinh” hầu kéo dài độc quyền thống trị đất nước để có thể vơ vét tài sản của người dân lâu chừng nào có thể! Như các thế hệ lãnh đạo trước đó trong đảng CSVN, nhà cầm quyền Hà Nội hiện nay, chủ yếu là 15 thành viên Bộ chính trị khóa 10, cũng là những con buôn chính trị mạt hạng nhất, đáng tởm nhất mà dân tộc và thời đại đã và đang chứng kiến! Biết rất rõ bản chất bá quyền nước lớn của Trung cộng, luôn muốn thôn tính Việt Nam từ bấy lâu nay, họ đã từng tuyên bố cách đây 30 năm, sau cuộc chiến biên giới 1979 rằng: “Chính sách ngày nay của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt Nam, mặc dầu được ngụy trang khéo léo như thế nào, vẫn chỉ là chính sách của những hoàng đế “thiên triều” trong mấy nghìn năm qua, nhằm thôn tính Việt Nam, khuất phục nhân dân Việt Nam, biến Việt Nam thành một chư hầu của Trung Quốc” (“Sự thật về quan hệ Việt Nam–Trung Quốc trong 30 năm qua”, do Bộ ngoại giao CHXHCN Việt Nam công bố. Nhà xb Sự Thật, 1979, trang 24). Thế nhưng sau khi chỗ dựa Liên xô sụp đổ, CSVN lại trở về hàng phục CSTQ một cách khiếp nhược, thích thú và hãnh diện với những lời khen tặng kiểu xoa đầu của “thiên triều Đại Hán”, qua “phương châm 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt”!

● Trước sự việc trên, Khối 8406 chúng tôi tha thiết kêu gọi Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước ý thức về nguy cơ khôn lường có thể dẫn đến mất nước này của Dân tộc (tương tự như dân Tây Tạng); đồng thời xin làm sống dậy tinh thần trách nhiệm của từng cá nhân, từng tập thể nơi các tôn giáo, các chính đảng, các giới trí thức, sinh viên, công nhân, nông dân… trước nguy cơ mất nước này.

Với Kháng thư này, Khối 8406 chúng tôi:

1- Cực lực tố cáo âm mưu thâm hiểm của bá quyền nước lớn Trung Quốc, kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc, từ hàng ngàn năm nay không ngừng nuôi mộng thôn tính Việt Nam và nay đang ngang nhiên coi thường quốc tế để ngoạm dần đất biển Tổ quốc cũng như xâm lăng về mặt văn hóa, chính trị, xã hội.

2- Cực lực lên án hành động “mãi quốc cầu vinh” cách ngang nhiên táo tợn của đảng CSVN, cụ thể là Bộ chính trị. Hành động bán nước này đã khởi sự từ Công hàm ô nhục năm 1958, qua hai Hiệp định lãnh thổ và lãnh hải năm 1999 rồi 2000, đến lễ hoàn thành việc cắm mốc biên giới phía Bắc cuối năm 2008 mới rồi.

3- Kêu gọi Đồng bào Tây Nguyên, cụ thể ở Ðắc Nông và Lâm Đồng xuống đường, chống đối đến cùng việc Cộng sản cướp đất đai của Đồng bào để khai thác mỏ; nhất định không bỏ đi, không di dời, không làm tôi mọi cho CSVN và CSTQ.

4- Kêu gọi Đồng bào trong nước, từ các bậc tu hành, các nhà trí thức, các chiến sĩ dân chủ, đến giới công nhân viên chức, giới sinh viên học sinh… hãy đồng loạt lên tiếng để đòi lại danh dự cho Dân tộc đang bị chà đạp, để bảo vệ an ninh cho Tổ quốc đang bị coi thường bởi một nhóm lãnh đạo hèn nhát, khiếp nhược, công khai làm nô lệ cho kẻ thù!

5- Kêu gọi Quốc hội, lực lượng công an, lực lượng quân đội đừng hèn đến mức chấp nhận trở thành công cụ của Bộ chính trị, sẵn sàng tiếp tay cho bọn chúng ức hiếp, cướp bóc đất đai và tài sản của người dân để dâng hiến cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc. Trái lại, hãy can đảm và anh dũng đứng về phía nhân dân, hãy nghĩ đến vận mệnh của giống nòi, bênh vực quyền lợi của Tổ quốc, bảo toàn danh dự của chính mình và của Dân tộc.

6- Kêu gọi Đồng bào hải ngoại (a) phổ biến tin tức về Quốc nạn và Quốc họa này cho mọi người Việt khắp nơi trên mọi phương tiện thông tin để ai nấy cùng ý thức trách nhiệm trước hiểm họa mất nước; (b) tố cáo mưu đồ xâm lăng của Trung Cộng trước Liên Hiệp Quốc, các Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các Thân hữu ngoại quốc năm châu: (c) tổ chức biểu tình liên tục trước các tòa Đại sứ, lãnh sự của CSTQ lẫn CSVN trên toàn thế giới. Ngoài những cuộc biểu tình riêng biệt, xin hãy tổ chức đồng loạt tổng biểu tình khắp nơi vào ngày 08-04-2009, ngày chào mừng 3 năm thành lập Khối đấu tranh cho Tự do Dân chủ 8406, và ngày 30-04-2009, ngày tưởng niệm 34 năm miền Nam rơi vào tay Cộng sản.

7- Kêu gọi toàn thể Đồng bào trong và ngoài nước cùng tham gia Chiến dịch lấy chữ ký phản đối nhà cầm quyền Bắc Kinh và nhà cầm quyền Hà Nội đang đồng lõa gây hiểm họa cho Tây Nguyên và cho cả Việt Nam.

Hãy dũng cảm vùng lên, Đồng bào Việt Nam ơi!
Ðả đảo đảng CS Việt Nam bán nước cầu vinh!
Ðả đảo đảng CS Trung Quốc xâm lăng Đất tổ!

Làm tại Việt Nam ngày 15 tháng 03 năm 2009.
Ban điều hành lâm thời Khối 8406.
1- Kỹ sư Đỗ Nam Hải, Sài Gòn, Việt Nam.
2- Trung tá Trần Anh Kim, Thái Bình, Việt Nam.
3- Linh mục Phan Văn Lợi, Huế, Việt Nam.
4- Giáo sư Nguyễn Chính Kết (đang vận động dân chủ tại hải ngoại)
(trong sự hiệp thông của linh mục Nguyễn Văn Lý, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và nhiều chiến sĩ dân chủ khác, hiện còn đang bị giam cầm trong lao tù cộng sản.)

Saturday, June 06, 2009

 

Đấu tranh cho Tự do Tôn giáo tại Huế

Bản tin ngày 06-06-2009

Giáo xứ An Bằng kiên trì đấu tranh bảo vệ Công lý!

I- Ký sự của Linh mục Quản xứ Nguyễn Hữu Giải

· 27-02-2009: 18g, tôi nhận được văn thư thông báo của xã Vinh An, đề ngày 27-02-2009, số 15/TB-UBND, do ông chủ tịch Phạm Bình Tịnh ký. Thông báo cho chúng tôi biết xã đã khảo sát và chọn 5 vị trí đất và yêu cầu chúng tôi chọn một trong năm vị trí đó để dựng đài lễ giáp An Bắc. Khi chọn xong, chúng tôi sẽ đến xã để được hướng dẫn lập hồ sơ, chậm nhất vào ngày 02-03-2009. Các vị trí đất là của các ông đang trồng dương liễu, keo, tràm hoa vàng: ông Lê Bền, ông Lê Chế, ông Lê Đạt, ông Lê Liễn, ông Văn Công Chính.

Trước đó, ngày 20-02-2009, các ông trong HĐGX An Bằng được mời vào xã “làm việc”. Các ông đã trình với xã là không dám chọn vị trí nào vì sợ hậu họa giữa giáo xứ và con cháu người đang sử dụng đất, dù xã nói đất xã quản lý.

· 02-03-2009: Giáo xứ gởi UBND xã thư phúc đáp đề ngày 01-03-2009. Giáo xứ không nhận vị trí nào vì muốn tránh hậu quả tranh chấp sau này và muốn xây dựng đài lễ trên thửa đất Giáp đã thờ phượng Chúa lâu nay

Nhiều lần Giáp và Giáo xứ đã trình bày với xã huyện rằng đất của Giáp có từ 1961 và đã liên tục sum họp thờ phượng Chúa cho tới nay. Vì chiến tranh và chưa thuận tiện nên mãi đến năm 2007, Giáp mới có kế hoạch xây dựng đài lễ cố định và đã làm đơn xin phép xây dựng một Thánh Giá, một bàn thờ và một tượng Thánh Tâm. Bỗng nhiên xã huyện buộc tội chiếm đất thuộc rừng phòng hộ biển! Đất chúng tôi thuộc diện xã quản lý trong thời điểm nào?

· 04-03-2009: Ông Văn Đình Trung, ông Lê Lượng, ông Nguyễn Thanh thuộc HĐGX An Bằng bị mời vào xã “làm việc” về quyết định chọn vị trí đất.

Các ông là những vị cựu trào của địa phương, biết rõ chủ những thửa đất này trước đây có làm nhà ở hoặc canh tác, về sau vì hoàn cảnh đi sinh sống nơi khác nhưng cũng ở trong làng và trồng cây lưu niên trước 1975.

Các ông trình bày: chúng tôi thấy có rất nhiều nhà ở, hồ nuôi tôm, công trình phường khóm nằm sát biểm hơn đài lễ giáp An Bắc. Suốt vùng cát duyên hải từ đèo Ải Vân đến Thuận An, nhiều làng ở sát biển. Nếu những làng mạc, cơ sở, công trình ấy thật sự thuộc rừng phòng hộ biển thì chắc chắn phải di dời hết. Đó là chưa kể bao nhiêu rừng dương liễu nằm giữa An Bằng và Thuận An đã bị nhà cầm quyền tỉnh -từ hơn 10 năm nay- cho các “công ty khai thác titan” chặt phá, bứng gốc để đào cát lấy thứ quặng này !?!

· 12-03-2009: Theo giấy mời của UBND huyện Phú Vang, tôi đến tại văn phòng UBND huyện làm việc về thủ tục cấp đất làm đài lễ giáp An Bắc. Ông chủ tịch UBND huyện Phan Văn Quang xác nhận đất Động Bồ huyện định giao cho Giáo xứ làm đài lễ bị trở ngại vì làng An Bằng có kiến nghị không bằng lòng, hơn nữa giáp An Bắc không chịu nhận. Nay huyện đề nghị 5 vị trí đất khác, yêu cầu tôi chọn 1 trong 5.

Tôi trình bày: giáo xứ không thể chọn vị trí nào vì những thửa đất này đã có chủ sử dụng. Ông chủ tịch kết tội tôi cố tình nêu lên những lý do vu vơ để không chịu tháo dỡ Thánh Giá, bàn thờ ở đài lễ khỏi đất thuộc rừng phòng hộ biển do xã quản lý.

Một cán bộ khác cũng phụ họa, nêu đủ thứ lý do để kết án tôi vi phạm luật pháp, thậm chí chống lại Chúa vì “đi ngược lại ý dân” là đi ngược ý Chúa !?!

Ông chủ tịch ra lệnh cho ông chủ tịch xã Vinh An Phạm Bình Tịnh và cho tôi phải tìm một vị trí đất nào không thuộc tư nhân để trình lại cho huyện, hạn chót là 20-03-2009.

Trong biên bản làm việc, tôi ghi lại nguyện vọng của giáo dân là tiếp tục làm đài lễ tại thửa đất hiện chúng tôi đang thờ phượng Chúa, dù rộng hẹp.

Buổi làm việc kéo dài từ 9g đến 10g30.

· 20-03-2009: Chúng tôi nhận được văn thư của UBND huyện Phú Vang số 183/UBND-ĐĐ đề ngày 19-03-2009 do ông phó chủ tịch Dương Văn Ngọc ký.

Huyện vẫn cho rằng diện tích đất chúng tôi làm đài lễ là đất chiếm lấy từ rừng phòng hộ biển do xã Vinh An quản lý và “yêu cầu Hội đồng Giáo xứ An Bằng, giáp An Bắc tháo dỡ toàn bộ vật kiến trúc đã xây dựng trái phép theo công văn của UBND xã Vinh An”.

Giáo dân tiếp tục sum họp đều đặn mỗi ngày trước Thánh Giá đài lễ giáp An Bắc, nhất là trong Mùa Chay này để sốt sắng cầu nguyện cho công lý, sự thật và tình thương, cho quyền tư hữu đất đai và tự do tôn giáo.

· 28-03-2009: Nhà nước điều động kiểm lâm tỉnh và huyện dùng xe vận tải và xe trâu chuyên chở vật dụng xây dựng nhà ở lên đài lễ giáp An Bắc.

Lúc 21g30, anh Phạm Xuân Tuấn nghe tiếng máy cưa ở đài lễ. Khác mọi đêm, điện chiếu sáng ở các trại gác đài lễ tắt ngúm. Anh Tuấn chạy tới dồn dập hỏi to: “Ai cưa trộm dương?”. Im lặng! Anh la to hơn. Một giọng trong bóng tối đáp lại: “Cán bộ đây!”. Anh Tuấn tức giận: “Cán bộ cưa trộm dương! Ôi chao! Hết nói! Bó tay!”.

· 29-03-2009: Thánh lễ sáng Chúa Nhật, cộng đoàn giáo xứ An Bằng cầu nguyện xin ơn bình an và can đảm đấu tranh cho công lý, sự thật trước kế hoạch mới của nhà nước.

Cán bộ tháo dỡ lều bạt, chuyển sang đào móng nhà cạnh thửa đất đài lễ. Ông Lê Thanh, một ngư dân, tới hỏi cán bộ: “Ai cưa dương cưa tràm của tôi?” Không ai trả lời. Ông đưa chân hất tung mấy ụ lá dương khô, lộ ra mấy gốc cây mới bị cưa. Ông lớn tiếng tra hỏi: “Ai cưa trộm? Ai cưa?” Một ông cán bộ đáp: “Mấy thợ làm nhà cưa!” - “Các ông lấy quyền chi mà cưa cây của tôi? Mấy cây đã cưa giấu đâu rồi? Trả lại đây cho tôi! Tôi sẽ kiện!”.

Họ đã phi tang bằng cách kéo mấy thân cây xuống khe trũng ở đàng xa. Được biết ngôi nhà này do kiểm lâm tỉnh và huyện làm, gọi là “để bảo vệ rừng xã Vinh An”.

· 30-03-2009: Cán bộ huyện xã tập trung đông đảo làm lễ cúng dựng nhà. Nhà làm bằng gỗ, đã được chuẩn bị sẵn. Chỉ việc lắp ráp vào.

Dân chúng xôn xao. Dọc theo bờ cát vùng duyên hải chẳng có trạm bảo vệ rừng nào. Hình như ở Thuận An chỉ có một chòi canh. Hơn nữa bãi biển An Bằng ít khách du lịch tắm biển. Đã có một đồn lính biên phòng không xa đài lễ Thánh giá bao nhiêu. Rừng dương, tràm do dân biển trồng. Xã chỉ thị người dân nào muốn cưa cây phải làm đơn xin xã cho phép vì xã quản lý.

· 04-04-2009: Như thường lệ, giáo dân họp nhau đọc kinh hát thánh ca trước đài lễ Thánh giá. Cán bộ canh gác mở máy thật to, gây bức xúc cho giáo dân.

Sau buổi cầu nguyện, mệ Tãi Ngoãn, có nhà gần khu vực đài lễ, trách cán bộ không biết tôn trọng người dân. Mệ còn lớn tiếng: “Hết chỗ làm nhà hay sao mà chọn chỗ giữa đài Thánh giá và am phường mà làm? Phải có mắt mà nhìn. Ăn coi nồi ngồi coi hướng!”.

Được biết ngày xưa chính ông Lê Khinh cúng đất cho phường dựng am thờ theo tập tục ngư dân vùng duyên hải. Suốt năm nay, cán bộ đóng hai trại cạnh am để theo dõi đài Thánh giá.

· 06-04-2009: Giáo xứ gởi văn thư đề ngày 05-04-2009 cho UBND huyện Phú Vang. Giáo xứ nhắc lại: giáo dân giáp An Bắc đã có cuộc họp giáp theo yêu cầu của huyện ngày 19-12-2008 và đã gởi biên bản cuộc họp giáp cho huyện, trong đó ghi rõ giáo dân không đồng ý nhận đất của làng hoặc của người dân đang sử dụng. Đất làm đài lễ là của giáp từ năm 1961, có nguồn gốc là đất ông Lê Khinh đã cúng, con cháu và dòng tộc đã chứng minh.

Giáo dân trong giáp cũng như giáo xứ đã thường xuyên và liên tục sum họp thờ phượng Chúa suốt bao năm qua. “Chúng tôi mong được an tâm thờ phượng Thiên Chúa tại nơi truyền thống lâu đời của chúng tôi”.

· 10-04-2009: Ngôi nhà đã hoàn thành, đã treo cờ, đã mang bảng hiệu “Hạt kiểm lâm huyện Phú Vang. Trạm bảo vệ rừng Vinh An”. Một khẳng định của bạo quyền!

Từ 10g đến 12g, giáo dân giáp An Bắc đi Đàng Thánh giá tại đài Thánh Giá. Hôm nay là Thứ Sáu Tuần Thánh. Dù nắng nóng, mọi người vẫn suy ngắm và đọc kinh cầu nguyện sốt sắng.

Ôi Thập tự! Phước lành thế giới,
Nguồn cậy trông cứu rỗi tràn lan,
Xưa nên hình khổ nhục nhằn,
Nay thành ngưỡng cửa Thiên đàng quang vinh.

Này Tế Phẩm trên mình ngươi đó
Đã giang tay quy tụ người trần,
Mặc cho thủ lĩnh thế gian
Tấn công cũng chẳng được phần lợi chi!

Giêsu hỡi! Con quỳ tạ Chúa,
Và Thánh Thần, Thánh Phụ cao tôn,
Giúp con chiến đấu chẳng sờn,
Theo cờ thập tự, thiên môn khải hoàn
”.
(Thánh thi trưa Thứ Sáu Tuần Thánh).


Kết thúc buổi cầu nguyện, mọi người đứng vòng quanh đài Thánh giá phấn khởi đọc kinh “A Rất Thánh Giá”.


Tiếng mõ tưởng niệm ngày Chúa Cứu thế chịu chết đánh chầm chậm đúng 12 giờ trưa, theo truyền thống, thay tiếng chuông, từ nhà thờ xứ đạo rơi nhẹ vào lòng tín hữu: một CON NGƯỜI bị kết án, bị tử hình, bị chôn vào lòng đất vì những quyền lực chà đạp công lý, sự thật, tình thương.



. 20-04-2009: Cha Lê Văn Nghiêm, hai tu sĩ dòng Tên, một ông tân tòng, đến viếng Đài Thánh giá, cầu bình an cho giáo xứ. Cha Nghiêm làm quản xứ An Bằng từ năm 1977 đến 2004. Ngài nói to cho mọi người có mặt nghe rõ: “Rừng dương trước đây cũng như sau này, chính chúng tôi trồng, gánh nước tưới, chăm bón mới được như ngày nay. Sao lại nói rừng của Nhà nước? Dối trá! Bất công!”.

Trong thời gian qua, nhiều giáo dân giáo xứ bạn viếng đài, hiệp thông cầu nguyện. Đặc biệt một số linh mục và tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế nhiều lần đến thăm giáo xứ và chia sẻ số phận bị bách hại của cộng đoàn An Bằng. Các ngài đã tổ chức cầu nguyện cho An Bằng trong các thánh lễ và các buổi đốt nến cầu nguyện cho công lý và hòa bình.

. 27-04-2009: Hội đồng giáo xứ nhận được văn thư của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế số 1746/UBND-NĐ đề ngày 23-04-2009, do phó chủ tịch Nguyễn Thị Thúy Hòa ký.

UBND tỉnh “đồng ý chủ trương giao thửa đất có số hiệu 38.2 thuộc tờ bản đồ địa chính số 05, tọa lạc tại khu vực Bắc Thượng, thôn An Bằng, xã Vinh An hiện do UBND xã Vinh An đang quản lý cho Hội đồng giáo xứ An Bằng để xây dựng khu hành lễ của giáo dân giáp An Bắc”.

Đây là lần đầu tiên giáo xứ nhận một văn thư cấp tỉnh. Nhưng khi hỏi UBND xã về vị trí thửa đất có số hiệu trên, xã trả lời không biết!




Văn thư của UBND tỉnh TT-H (23-04-09) - Giấy mời của UBND huyện Phú Vang (18-05-09)

· 02-05-2009: Từ sáng sớm, giáo dân giáp An Bắc chuẩn bị dâng hoa mừng Mẹ Maria dịp đầu tháng Mẹ tại Đài Thánh giá của giáp. Bỗng đâu lúc 9g, đông đảo cán bộ huyện xã tập trung tới, khoảng 30 người. Có cả chủ tịch UBND huyện, bí thư và chủ tịch UBND xã.

Ông chủ tịch huyện Phan Văn Quang mời ông giáp trưởng An Bắc Nguyễn Đức Mân vào “trạm bảo vệ rừng” bên cạnh Đài lễ để làm việc. Ông chủ tịch cấm đóng trại, cấm mở loa. Ông giáp trưởng trả lời:

- Chúng tôi đem mấy tấm bạt lên đây để trải trên cát cho các em dâng hoa khai mạc tháng mừng Mẹ Maria, chứ không đóng trại! Chúng tôi phải mở máy mở loa để các em tổng dượt và chiều nay dâng hoa cho đúng nhịp điệu.

- Chỉ được dùng máy cassette!

- Dân đây xài đầu máy dĩa cả. Hơn nữa, hiện giờ chúng tôi không có băng nhạc cassette!

Anh Phạm Xuân Tuấn, nhà gần đài, cũng bị mời làm việc vì nhà anh mở nhạc đạo sáng nay:

- Không được dùng loa cực mạnh!

- Loa chúng tôi thuộc loại rẻ tiền, chẳng giống loa của xã treo ở các trụ điện, không dây, cực mạnh!

- Phải chấp hành luật phòng hát karaoke!

- Chẳng tôi chỉ mở nhạc trong nhà chúng tôi!

Cán bộ, công an, biên phòng, kiểm lâm và các ban ngành khác thuộc huyện xã vẫn canh gác đến hơn 12g trưa.
Chiều, giáp vẫn tổ chức dâng hoa sốt sắng: sống có Mẹ, chết có Mẹ, Mẹ ơi! Nhóm người theo dõi vẫn còn đó, dù con số ít hơn

-

-


• 11-05-2009: Cán bộ thu dọn hai trại đã đóng hơn một năm nay. Chỉ còn lại ngôi nhà gọi là trạm bảo vệ rừng và năm sáu cán bộ.

• 19-05-2009: Hội đồng giáo xứ nhận được giấy mời của UBND huyện Phú Vang, phòng Tài nguyên Môi trường, số 162/GM-TNMT đề ngày 18-05-2009 do ông Phó trưởng phòng Nguyễn Văn Chính ký.

Văn thư mời ông Văn Đình Trung, chủ tịch HĐGX và ông Nguyễn Đức Mân, giáp trưởng giáp An Bắc, đến hội trường UBND xã Vinh An ngày 21-05-2009, để làm việc giao đất.

• 21-05-2009: Tại hội trường xã lúc 8g30, ông chủ tịch xã Phạm Bình Tịnh chủ tọa buổi làm việc. Cán bộ ban tôn giáo tỉnh, UBND huyện và xã có mặt. Ông chủ tọa xác định thửa đất có số hiệu 38.2 thuộc tờ bản đồ địa chính số 05 là đất hiện giờ ông Lê Đạt đang trồng cây.

Ông giáp trưởng Nguyễn Đức Mân lặp lại ý muốn của toàn thể giáo dân giáp An Bắc là không nhận bất cứ lô đất nào hiện giờ làng hoặc tư nhân đang sử dụng và muốn tiếp tục thờ phượng Chúa tại phần đất truyền thống của giáp từ bấy lâu nay. Cán bộ tôn giáo tỉnh ghi nhận nguyện vọng và hứa nghiên cứu giải quyết.

Tối cùng ngày, lúc 18g30, giáo dân giáp đang sum họp đọc kinh ca hát tôn vinh Mẹ Maria tại đài Thánh giá như thường lệ mọi ngày.

19g30, mọi người ra về. Một anh công an huyện cấp sĩ quan từ trong trạm bảo vệ rừng đi ra tiểu tiện ở gần Đài Thánh giá. Ông giáp trưởng chạy đến yêu cầu đừng làm ô nhiễm nơi tôn nghiêm đồng người tụ họp.

- Tôi đái đấy, anh làm chi tôi!

- Phải tôn trọng vệ sinh chung!

Một anh công an khác nhào tới bên ông giáp trưởng, giọng hống hách:

- Anh muốn chi?

- Tôi muốn làm người lịch sự!

Một anh kiểm lâm đến xoa dịu ông giáp trưởng:

- Thôi, nó đang say!

• 29-05-2009: Sáng nay cán bộ tăng cường lực lượng quanh Đài Thánh giá. Một số gặp các ông trong HĐGX hỏi giáo dân sắp làm gì tại đài.

Thực ra, hôm nay là ngày các giáp trong giáo xứ tạ (ơn) Mẹ cuối tháng. Ngày mai cả giáo xứ tạ Mẹ long trọng. Giáo dân giáp An Bắc làm vệ sinh môi trường tại đài. Không biết cán bộ tại chỗ thông tin sao đó khiến lực lượng cán bộ công an huyện xã kéo tới canh phòng khoảng 20 người.

Lúc 17g, ông giáp trưởng Nguyễn Đức Mân lại bị mời làm việc. Trời sắp mưa, một số bô lão muốn căng mấy tấm bạt đứng đọc kinh. Để tránh phiền phức với cán bộ, tất cả quyết định đứng giữa trời mưa mà tạ Mẹ.

18g, cộng đoàn kiệu tượng Mẹ quanh Đài. Các em nhi đồng múa dâng hoa năm sắc lên Mẹ. Trời mưa to. Mọi người sốt sắng dưới mưa. Cán bộ an toàn trong ngôi nhà bảo vệ rừng.

19g bế mạc. Các em chia sẻ quà tặng. Vui vẻ dù ướt lạnh. Không quên những phần quà cho người nghèo xa gần. Tạ ơn Mẹ.

II- Nhận định của Nhóm Phóng viên

Giáo xứ An Bằng, với mảnh đất nhỏ bé của mình ở giáp An Bắc, tiếp tục bị nhà cầm quyền CSVN -từ cấp xã đến cấp huyện lên cấp tỉnh- sách nhiễu đàn áp, với đủ trò vừa vô lý vừa vô luật, trong mục đích thực thi và duy trì quyền lực độc đoán của mình: quyền sở hữu mọi đất đai dưới trời Nam, quyền sai khiến mọi thần dân trên đất Việt, quyền theo dõi mọi hoạt động, quyền quấy nhiễu mọi cuộc sống, quyền lũng đoạn mọi tập thể.

Trong bản tin hôm nay, sự vô lý (lý thông thường) và vô luật (luật chính đáng) biểu lộ ở chỗ nhà cầm quyền tiếp tục mưu đồ đẩy giáo xứ và các cá nhân hay tập thể xung đột với nhau vì tranh giành đất đai. Thế nhưng giáo xứ vẫn kiên trì bảo vệ lập trường: không lấy đất đang sử dụng của ai đó, dù nhà cầm quyền có cấp đi nữa, một giữ chặt mảnh đất truyền thống của mình, và như thế là mặc nhiên lên án cái “quyền công hữu đất đai” hết sức bất công và khốn nạn của CS.
Sự vô lý và vô luật tiếp đến biểu lộ qua việc cán bộ bắt lâm tặc trở thành cán bộ lâm tặc và trạm kiểm lâm lại dựng ở chỗ rừng dương đã có sở hữu chủ là dân làng! Dân trồng cây, dân bảo vệ cây mình trồng. Ở làng An Bằng từ xưa đến rày lại không có chuyện ăn trộm cây người khác. Nay lần đầu tiên cán bộ vừa lén lút cưa trộm cây của dân vừa ngang nhiên dựng “trạm bảo vệ rừng” trên đất của dân, không một lời thương lượng, không một tiếng xin phép. Thế thì bảo vệ rừng làm gì? Tốn công giữ, phí nhân sự! Không đúng nơi, chẳng hợp hoàn cảnh. Trong lúc rừng cả nước bị tàn phá với tốc độ chóng mặt! Ai phá thì mọi người đã rõ? Thật ra cái gọi là “trạm bảo vệ rừng Vinh An” chỉ là trạm theo dõi, quấy nhiễu mọi hoạt động tôn giáo tại đài lễ, và khi cần thì có thể xóa sạch đài lễ này.

Sự vô lý và vô luật còn biểu lộ qua việc nhà nước quá thừa giờ, thừa người và thừa tiền, để nghe phong thanh một chuyện nào đó tại đài lễ giáp An Bắc (hay giáo xứ An Bằng) là huy động vô số nhân lực, vật lực đến, để chỉ làm mỗi một việc là sách nhiễu, áp bức cuộc sống dân lành, là quấy rối -thậm chí lăng mạ bằng cử chỉ côn đồ vô học- những sinh hoạt tôn giáo của tín hữu. Người dân không bao giờ được yên trong chuyện sinh sống và chuyện giữ đạo, lại còn phải nai lưng nộp thuế để dung dưỡng, duy trì cái bộ máy chính quyền ăn hại suốt bao năm trường.

Chuyện An Bằng phản ảnh chuyện nhiều nơi trong 26 giáo phận tại Việt Nam, chuyện nhiều nơi trong 64 tỉnh và thành phố khắp cả nước. Phản ảnh thói lộng hành của cái đảng tự xưng là đại diện cho giái cấp vô sản, nhưng thật là một đảng cướp tham lam vô độ. “Cái Đảng vô sản này khởi đầu không có một tấc đất nào, sau khi cướp được chính quyền bỗng ban hành cái Luật Đất đai để trong nháy mắt chiếm giữ toàn bộ đất đai, lãnh thổ của dân tộc, rồi “ra ơn” ban phát cho dân được “mượn” và khi cần cướp lại thì dùng từ “thu hồi” (Luật gia Đỗ Thuý Hường). Nó và cái luật của nó đang gây điêu đứng cho cuộc sống của hàng triệu người dân Việt Nam và hàng ngàn tập thể dân sự lẫn tôn giáo cả nước. Chỉ có xóa sổ cái chế độ bất công này thì mọi tài sản tinh thần (mọi thứ tự do, nhân quyền) và mọi tài sản vật chất (đất đai nhà cửa) mới được trả lại cho nhân dân.

Nhóm Phóng viên FNA tường trình từ Huế,
lúc 20g30 ngày 06-06-2009





This page is powered by Blogger. Isn't yours?

Tin Việt Nam

(freevietnews.com)